26 tháng 11, 2025

VTM 181_Mùa Thu lỗi hẹn_Nguyễn Cang



Xướng:

Mùa Thu lỗi hẹn

Hiu hắt vườn xưa gọi gió thu
Sớm mai đồi núi phủ sương mù
Hàng cây vàng lá cành xơ xác
Thành phố sương mờ cảnh tịch u
Mây tím hoàng hôn nghe buốt giá
Trời chiều hoàng hạc ngóng trăng lu
Đồi sim mấy độ ta ngồi đợi
Sao nỡ qua đò bỏ bến thu?!!
Nguyễn Cang
Nov. 5, 2025


Họa 1:

Vào thu

Sông buồn man mác nhuộm hơi thu,
Sương phủ không gian, đất tối mù
Khí lạnh giăng đầy, non trắng xóa
Đò chiều thưa thớt, bến âm u.
Hết vương tơ nắng hoàng hôn lịm,
Vừa mở vành cung ánh nguyệt lu.
Về tổ, đàn cò xao xác gọi,
Thuyền ai thơ thẩn đợi trăng thu?
Minh Tâm

Họa 2:

Trăng Thu

Hằng năm mỗi độ cứ vào thu
Ngày ngắn canh thâu tối mịt mù
Đất khách rừng phong màu lá úa
Không gian khoảnh khắc thấy âm u
Tâm tư gởi gắm theo chiều gió
Kỷ niệm phai mờ ảo ảnh lu
Lữ khách bâng khuâng lòng rộn rã
Đêm về lặng lẽ ngắm trăng thu
Hương Lệ Oanh VA
Nov, 6. 2025

Họa 3:
 








Cảnh thu

Hoa hồng đơn độc giữa mùa thu
Đỏ thắm xóa tan cảnh mịt mù
Phản chiếu nắng chiều cây sáng chói
Lá vàng che lấp cảnh mù u
Rừng cây trơ trọi cành hiu quạnh
Lấp lánh ánh đèn lúc tỏ lu
Vắng bóng đàn chim kêu ríu rít
Đóa hồng chễm chệ đón trăng thu
PTL 

Họa 4:

Dáng thu xưa

Ta về phố nhỏ giữa mùa thu
Lối cũ mây ùn gợn xám mù
Cảnh vắng chiều nghiêng đời vội vã
Sân mờ liễu rũ dáng âm u
Màn đêm phả nhẹ làn hơi ấm
Bóng tối vờn quanh ngọn nến lu
Trở gót buồn thương tình phố cổ
Rừng cây tiễn bước rực vàng thu
TQ
Nov. 2025

1.Tân nhạc: Thu sầu

Sáng tác: Lam Phương

Ca sĩ: Tạo bởi AI computer






2. Cổ nhạc: Thu Buồn
Soạn giả:: Phan Văn Thanh
Nghệ sỹ: Trọng Hữu 



Nói lối:
Người đi đi giữa phố khuya,
Hạt mưa trĩu nặng rụng bên thềm.
Đêm nay phố vắng đèn heo hút
Chút gió thu đông lạnh thắm lòng.

Vọng cổ

Câu1:

Thôi em ơi đừng ru làm chi những lời ru hờn trách, đâu phải tại gió thu đông đã chia cách mối duyên tình ...
Lối cũ đường quê đã in bóng đôi mình .......
Bên ngõ vắng những chiều hò hẹn, tim ai ngập ngừng theo từng chiếc lá vàng rơi.
Phải đâu giọt thu buồn làm nước mắt em rơi, trong phút chia tay để mỗi đứa một phương buồn.
Rồi tình cứ xa dần theo năm tháng người đi, để buồn nát con tim, để một đời nuối tiếc.

Câu 2:

Trời cho giọt nắng giọt mưa,
Ai đem giọt đắng gieo vào hồn tôi.
Giọt buồn còn đọng trên môi,
Giọt sầu ai để cả đời tôi mang ?
Tôi muốn khuyên em thôi đừng trách hờn mùa thu nữa, rồi tự khuyên tôi đừng đổ lỗi cho người ...
Thời gian đi có trở lại bao giờ ...
Cuộc đời tôi đã lắm nhiều bão tố, tại phận mình hay do số trời trao.
Xin em đừng thổn thức bước thu qua, đừng nhặt lá vàng nơi ngõ xưa mình hò hẹn. Dẫu đáy tim tôi tình em còn nguyên vẹn, kỷ niệm ngày nào tôi đâu dễ gì quên.

Ngâm thơ:

Người đi đi giữa chốn đời
Xin làm lữ khách cố nhân ơi,
Vấn vương, vương vấn mùa thu chết,
Ngõ vắng tình buồn lạnh lắm không ?

Câu 5:

Ngõ vắng tình yêu em sợ mùa thu không trở lại, cho con tim tê tái buổi đông về ....
Sợ ngọn gió heo may thổi lạnh nỗi mong chờ ...
Sợ lá vàng rơi ngập đường xưa lối cũ, sợ áng mây buồn che khuất mảnh trăng thu. Ngày tôi về đi giữa phố đêm, tìm lại lối thu xưa, lối thu buồn quanh quẽ.
Người về viết lại vần thơ,
Đường xưa lối cũ mưa rơi giọt buồn

Câu 6:

Thu nay lại về nhưng cuộc tình đã lỡ, bến hạnh phúc đây rồi sao thuyền chẳng buông neo ?
Biết em buồn nên dám trách ai đâu, tại tôi lắm đa đoan như kiếp tằm còn nặng nợ.
Đời tài hoa cũng là đời đau khổ, kẻ đa tình hay vướng bận tình duyên.
Tự nhủ lòng đâu ai có lỗi, chỉ thiếu với nhau một mối nợ tình.
Người đi để lại đêm dài,
Người đi để lại tháng ngày nhớ mong.
Đợi chờ thu lại sang đông,
Tình đà dang dở, tình buồn biệt ly

23 tháng 11, 2025

Nghĩ về Thầy Cô ở Đại Học Sư Phạm - Vũ hoàng Hoa

 

Dãy lầu ban Văn chương ĐHSPSG



Vũ hoàng Hoa

(Trong Trang Văn Chương Miền Nam)

 Tôi vào Đại học Sư phạm Saigon ngày 18. Lúc đó, tuổi thành niên là 21. Tôi không đủ tuổi để nói chuyện với chính phủ(!) nên Ba tôi phải ký giấy cam kết hoàn lại toàn bộ số tiền học bổng mà chính phủ sẽ cấp cho tôi, sinh viên Sư phạm trong suốt học trình 4 năm nếu tôi bỏ nhiệm sở trước khi hết hợp đồng 10 năm. Lúc đó ký là ký thôi. Ba tôi và tôi không thắc mắc tại sao lại có chuyện cam kết này.

Sau này tôi mới vỡ lẽ ra là vì tình trạng chiến tranh, có thể chúng tôi rơi vào những nhiệm sở thuộc vùng” xôi đậu “ bất ổn nên tờ giấy cam kết đó là sợi dây buộc chặt chúng tôi để khỏi... đào nhiệm!

Tôi vào Sư phạm vì vâng lời Ba tôi. Ba muốn tôi có việc làm chắc chắn sau khi ra trường chứ ông không muốn tôi phải vác bằng cấp long đong đi xin việc, hơn nữa, theo Ba tôi, dạy học là một nghề hiền lành, thích hợp với tôi, một con bé nhút nhát, chậm chạp!

Tôi không mấy hứng thú nhưng không dám cãi lời Ba và cũng vì ham áo mũ ra trường, coi rất bảnh( khiếp ! chưa vào học mà đã tính chuyện tốt nghiệp!) và số tiền học bổng ba ngàn mỗi tháng nên “cũng liều... nhắm mắt đưa chân , mà xem con tạo xoay vần đến đâu “ 

Năm tôi vào trường thì thẩy Trần văn Tấn, tiến sĩ toán, tốt nghiệp ở Pháp là giáo sư khoa trưởng.

Ở Sư phạm, tôi gần như không biết đại giảng đường là gì, chỉ trừ hai kỳ thi bán niên thì chúng tôi mới tập trung vào đại giảng đường ( nhỏ xíu!) để thi cùng với sinh viên của các ban khác gồm Sử địa, Anh văn, Pháp văn. Còn xuân thu nhị kỳ chúng tôi chỉ quanh quẩn trong lớp học của bốn mươi sinh viên . 

Những ngày đầu ở Sư phạm, tôi không vui vì ít ra một năm Văn khoa cũng đã cho tôi cảm giác tự do, thoải mái mà tôi chưa bao giờ được hưởng. Ở Văn khoa, muốn đi học thì đi, không thì thôi, chỉ cần mua sách( cours) về học, tới kỳ thi thì lại là kiếp con tằm... nhả tơ. Nhưng Sư phạm thì không, chúng tôi là những “ công chức” tương lai nên mỗi ngày phải đi học hai buổi sáng chiều, tám tiếng! Cứ mỗi hai giờ thì văn phòng sinh viên vụ lại đưa sổ điểm danh lên để sinh viên ký tên. Chúng tôi vẫn nói đùa là chữ ký của mình là chữ ký bằng vàng vì trường căn cứ vào đó mà phát học bổng!

Trường chúng tôi gồm hai dãy lầu cũ, ngăn cách bằng một sân cờ với hai thảm cỏ nhỏ. Tôi nghe nói, niên khoá đầu tiên của chúng tôi ở Sư phạm Saigon, trường chỉ có 900 sinh viên cho cả hai khối :nhân văn( khoa học xã hội gồm Việt Hán, Anh văn, Pháp văn và Sử Địa) và khoa học ( khoa học tự nhiên: Toán, Lý Hoá và Vạn vật). “ Hàng xóm” của chúng tôi là Trung học Petrus Ký, mặt tiền ở ngay đường Cộng Hoà, đối diện Tổng nha Cảnh Sát Quốc gia, kế đó là Đại học Khoa học.

Ở Sư phạm, tôi có cảm tưởng đang học trung học khi thầy gọi đọc bài, chúng tôi cũng phải đem tập lên bàn thầy, đứng vòng tay đọc bài! 

Các thầy cô phụ trách giảng dạy chúng tôi cũng tương đối trẻ. Giáo sư lớn tuổi nhất của chúng tôi năm ấy là thầy Trương văn Chình. Thầy Chình dạy môn Văn phạm. Điều làm tôi nhớ thầy mãi không phải là những bài giảng của thầy mà là vẻ... đẹp trai, ô không, vẻ đẹp lão của thầy!

Nguyễn tấn diệu Tâm, bạn thân của tôi và tôi cứ nhìn thầy xuýt xoa” Chu cha, thầy ơi! Thầy ăn chi mà thầy đẹp dễ sợ rứa? Chừ thầy già rồi mà còn đẹp cỡ ni, khi trẻ chắc có lắm cô chết vì thầy! “Và dĩ nhiên đó chỉ là những lời tán dương vẻ đẹp” khuynh thành “của thầy mà hai đứa tôi chỉ dám nhỏ to sau lưng thầy!

Mà phải công nhận, thầy tôi đẹp thật!

Buổi học đầu tiên thầy kể cho chúng tôi nghe sơ về gia thế của thầy. Trước kia, thầy là Tổng giám đốc bưu điện Saigon và thẩy có một người con trai đang đi học ở Úc, ngành kỹ sư đóng hộp. Sau này, bọn tôi thấy thầy có vẻ để ý ưu ái Thu Vân, bạn đồng môn của chúng tôi nên cả lũ hùa nhau chọc Thu Vân” Thầy chấm mày làm ... con dâu rồi đó! Mai mốt thầy sẽ... đóng hộp mày, gửi qua Úc! “ vả chúng tôi lăn ra cười mặc cho Thu Vân lúng túng, muốn khóc!

Nhưng rồi thế cuộc đổi thay nên Thu Vân không bị “ đóng hộp “ đi Úc mà hiện nay bạn đã là tiến sĩ, phó giáo sư đại học sư phạm thành hồ! 

Rồi chúng tôi có thầy Phan Hồng Lạc là giáo sư môn Hán văn. Thầy trẻ, hiền và cười với sinh viên hoài!

Ngoài ra, thầy còn là giáo sư hướng dẫn thực tập của chúng tôi trong bán niên đầu.Thầy ân cần dặn dò chúng tôi từng chút một. Với các nữ sinh viên, thầy nhắc chúng tôi đánh phấn hồng để che nét mặt xanh tái, bối rối khi lên bục giảng!

Thầy dịu dàng phân tích những ưu, khuyết điểm của chúng tôi trong giờ thực tập và không bao giờ thầy nỡ xuống tay với sinh viên! Thầy ơi! Bao nhiêu năm qua, không còn được gặp thầy nhưng bao giờ nghĩ đến các thầy cô, thì thầy vẫn là một trong những hình ảnh rất đáng quý, đối với em, thưa thầy!

Thầy biết không, ngày đó, sinh viên Việt Hán một chúng em đã ưu ái tặng thầy biệt danh:”Hoà thị chi bích”, theo đề bài Hán văn đầu tiên thầy dậy chúng em: Viên ngọc của người họ Hoà. 

Nói đến thầy Phan Hồng Lạc là phải nhắc tới thầy Lê hữu Mục. Thầy Mục giảng dạy môn chữ Nôm. Thầy mập,giọng thầy ồm ồm, mới thoạt nhìn, tôi rất sợ! Nhưng thật ra, thầy Mục dễ thương lắm. Thầy tận tâm giảng dạy. Môn chữ Nôm là môn học mới mẻ và khá khó nuốt(!) vì để học được chữ Nôm thì chúng tôi phải biết chữ Hán đã, do chữ Nôm được cấu tạo từ chữ Hán...

Thầy Mục có lẽ cũng hiểu chúng tôi đa số chỉ mới học Hán văn năm Dự bị Văn chương Việt Nam ở Văn khoa nên vốn liếng chữ Hán cũng rất còm cõi do đó thầy dạy chậm, giải thích tường tận, nhờ vậy chúng tôi cũng đỡ vất vả. Nhớ có lần thầy bảo cả lớp viết tên thầy bằng chữ Hán, tất cả chúng tôi đều viết chữ Mục là con mắt! Lê hữu Mục là... ông Lê có mắt! Thầy đã lắc đầu, mắng chúng tôi “ Dốt! Dốt! Mục của thầy là hoà thuận chứ không phải là con mắt!”

Ngoài ra, thầy Mục còn là một vĩ cầm thủ tài hoa! Thầy rất nghệ sĩ! Thỉnh thoảng thầy hát cho trò nghe và thầy cũng bảo chúng tôi hát cho thầy bạn cùng nghe. Thầy Mục của con! Thầy Mục của những ngày chữ Nôm và tiếng hát sinh viên! 

Bên cạnh các thầy Phan Hồng Lạc, Lê hữu Mục là hai giáo sư Phạm văn Diêu và Phạm văn Đang. Hai thầy cùng họ, cùng chữ lót tưởng như anh em ruột nhưng thật ra không phải, thầy Diêu người trung, thầy Đang người bắc. Cả hai thầy chia nhau dạy chúng tôi phần Văn học Lý Trần. Thầy Diêu còn dạy thêm phần văn học dân gian. Thầy Diêu viết văn hay lắm, văn của thầy là một bài thơ! 

Thầy Đang còn trẻ !Tôi đoán thầy chỉ ngoài ba mươi một chút thôi! Thầy vui tính và tôi là sinh viên được thầy ưu ái vì tính tôi ... lẩm cẩm, thích tìm đọc những điển cố Trung hoa nên tôi đã trả lời được khi thầy hỏi” tại sao gọi là chín suối? Tại sao Cao Bá Quát lại có hiệu là Chu thần?”... 

Thầy Đang dễ chịu bao nhiêu thì thầy Diêu lại khó tính bấy nhiêu. Thầy hay rầy chúng tôi vì những “ lỗi” không do chúng tôi cố ý gây ra, thầy mới đến ngưỡng cửa lớp mà nếu chúng tôi chưa thấy, không kịp đứng lên chào là bị thầy “ dũa” te tua! Thầy Diêu cũng” biết mình biết ta” lắm(!) nên có lần thầy cay đắng bảo chúng tôi “ Ngày các anh chị ra trường, đừng mời tôi dự tiệc! Tôi biết các anh chị không ưa tôi nhưng đã phải chịu đựng tôi trong bấy nhiêu năm học, bây giờ, còn những giờ phút cuối, tôi phải tránh mặt đi để cho các anh chị thoải mái! “Nhìn vẻ mặt buồn bã của thầy khi nói, tôi bỗng thấy xót xa nhưng tận thâm tâm, tôi vẫn tự hỏi “ sao thầy không thể thân ái với chúng tôi như các thầy cô khác? Tại sao thầy phải khắt khe với chúng tôi để thầy buồn và chúng tôi cũng không vui? 

Thầy Diêu buồn thì thầy Nguyễn sĩ Tế lại vui, rất vui! Những giờ văn học Phương Tây với thầy tràn ngập tiếng cười! Thầy đã được chúng tôi tặng biệt danh” ông cố vấn dung nhan “ và biệt danh này chỉ luân lưu trong phạm vi sinh viên chúng tôi. Số là,khi thầy dạy tác phẩm “ Trưởng giả học làm sang”( Les bourgeois gentilles hommes) của Molière, thầy giảng những bà nhà giàu mới nổi, thích làm sang và để tỏ ra ta đây thuộc hàng danh giá, tách biệt khỏi giới bình dân thì họ cũng đổi cách ăn nói, chẳng hạn cái gương soi mặt ( le miroir)thì họ lại gọi là cái cố vấn dung nhan (le conseil de la beauté!)và thế là từ đó thầy có tên...! Ngoài ra, tôi còn nhớ hễ mỗi khi thầy đang giảng mà bỗng cúi xuống là sinh viên cũng lo lật đật ...cúi theo... để ghi cours cho kịp vì thẩy nói nhanh lắm!

Chúng tôi học với thầyTế hai giờ cuối,ngày thứ hai và lúc nào cũng vậy, tôi ra về với một nụ cười!

Cô Nguyễn thị Xuân Lan là nữ giáo sư duy nhất của chúng tôi, Việt Hán một- Pháp văn trong bán niên đầu. Tên sao người vậy! Cô người Huế, cô là biểu tượng dịu dàng, khả ái của núi Ngự sông Hương! Ngày đầu tiên cô đã cho chúng tôi được chọn bài học, cả lũ đã nhao nhao xin cô cho học tình thư lãng mạn, và bức thư tình đầu tiên cô dạy là tình thư của Napoléon gửi cho Joséphine. Tôi còn nhớ có lần cô dạy chữ dépeupler, nghĩa là làm cho bớt người, dãn dân...và cô giảng chữ này trong một câu thơ của Lamartine: “Un seul Etre vous manque et tout est dépeuplé( xin tạm dịch: vắng một người cả trời đất đều hoang vu!) Hay quá là hay! 

Thầy Lê thanh hoàng Dân và thầy Trần công Thiện phụ trách môn Tâm lý giáo dục. Buồn ngủ ơi là buồn ngủ! Thầy Lê thanh hoàng Dân cũng được chúng tôi nghịch ngợm “phong tặng” là “ông... tâm bệnh”(!) vì bài giảng của thầy lúc nào cũng là tâm bệnh, nghe một hồi tôi cũng muốn bị ... tâm bệnh luôn! 

Thầy Giản chi Nguyễn hữu Văn dạy môn Triết đông. Thầy hiền ơi là hiền và thầy cho chúng tôi cảm tưởng như đang được nghe thầy kể chuyện đời xưa. Thầy là một trong những vị thầy khả kính của chúng tôi! 

Thầy Lê Ngọc Trụ là giáo sư môn Ngữ âm của chúng tôi. Bây giờ thì tôi chẳng còn nhớ chút gì về những bài Ngữ âm nữa nhưng luôn nhớ thầy Trụ. Thầy cũng như thầy Giản Chi, rất hiền! 

Bán niên hai, cô Khưu sĩ Huệ thay thế thầy Phan Hồng Lạc,phụ trách môn Hán văn. Cô là biểu tượng của một lương sư! Cô không bao giờ đi trễ và cũng không bỏ buổi dạy nào.Cô thương học trò nhưng rất nghiêm!

Hai giờ đầu, chiều thứ Hai là giờ Hán văn. Buổi sáng chúng tôi đã ngất ngư với hai giờ Văn học Lý-Trần và Văn học Dân gian. Đến chiều là đã bắt đầu uể oải! Hơn nữa trời Sài Gòn nóng nực nên hai mắt cứ muốn nhíp lại. Nhưng buồn ngủ cách mấy thì cũng phải ráng trợn mắt mà nuốt cho xong mớ chữ Hán hỗn độn kia!

Cô Khưu sĩ Huệ không giảng dạy theo lối thường như các thầy cô khác. Cô tập cho chúng tôi tinh thần tự tìm tòi, học hỏi.

Có lần cô cho đề bài”tuần sau,chúng ta sẽ học động từ “vi”. Các anh chị về tự học và mỗi người ít nhất làm cho tôi bốn câu có chữ”vi”! Chữ”vi”: động từ “là “như to be trong tiếng Anh hay Être trong tiếng Pháp.

Thứ hai sau đó, cô kêu bốn đứa đầu tiên lên bảng và tôi “hân hạnh “ nằm trong bảng”phong thần” của cô!

Tấm bảng lớn được chia làm bốn phần, cho Trần Phú Lai mà chúng tôi vẫn nghịch ngợm đọc lái là Phái Lu, tôi và hai bạn nữa mà tôi đã quên tên rồi.

Chúng tôi hí hoáy viết. Sau đó, cô biểu chúng tôi đọc lớn bài làm của mình cho cả lớp nghe.

Câu đầu tiên của Trần Phú Lai:

Ngã vi bần sĩ! Nghĩa là: Tôi là học trò nghèo!

Cô nhăn mặt!

Đến phiên tôi!

Vi nhân, mạc vô tử! Nghĩa Là: làm người ai mà chẳng chết!

Cô lắc đầu!

Và hai bạn sau tôi cũng với những câu hắc ám, bi quan tương tự!

Cô chán nản!

Cô hỏi Phái Lu:

-Anh tên gì?

-Thưa cô, em tên Trần Phú Lai.

-Anh viết tên anh ra coi!( dĩ nhiên là viết tên bằng chữ Hán), xong cô biểu Phái Lu dịch tên hắn ra rồi cô la:

-Cha mẹ anh đặt cho anh cái tên hay như vậy nghĩa là ông bà muốn sự giàu có đến với anh. Hà cớ gì mà anh lại nói anh là học trò nghèo?

Xong đời Phái Lu!

Đến phiên tôi, sau khi tôi đọc và dịch xong phần bài làm của mình, cô nghiêng đầu ngó tôi:

-Chị mấy tuổi?

-Thưa cô, con 18.

-Chị còn trẻ quá! Sống chưa được bao nhiêu sao đã lo chuyện chết?!

Tôi đứng yên, tàn đời!

Hai người bạn sau cũng đồng cảnh ngộ như Phái Lu và tôi!

Sau đó cô bảo tất cả chúng tôi viết tên mình nạp cho cô.

Tuần kế, cả lớp đều thoát “nạn”, chỉ trừ Tuyết Lệ!

Cô hỏi Tuyết Lệ:

-Chữ Lệ nghĩa là gì?

-Thưa cô, nước mắt.

Cô la:

-Chị nghĩ sao mà lại nói như vậy? Bộ khi sinh chị ra, ba má chị buồn lắm hả?

Và cô hỏi tiếp:

-Chị có biết nghĩa khác của chữ Lệ không?

Tuyết Lệ ấp úng:

-Thưa cô,không!

-Lệ có nghĩa là đẹp đẽ như tráng lệ, diễm lệ…

Một lần, giờ Hán văn của cô, lớp tôi có đến ba, bốn bạn đi trễ! Cô giận lắm nhưng cô vẫn ổn tồn bảo:

-Các anh chị phải biết, các anh chị ở trường này để được đào tạo thành thầy cô. Các anh chị nghĩ thế nào nếu mai này tới giờ dạy, các anh chị đã ở trên bục giảng mà cứ năm phút một đứa học trò đi vào, năm phút sau lại đứa kế tiếp?

Tất cả chúng tôi cúi gầm mặt xuống, im lặng! Từ đó về sau, giờ thầy cô nào còn dám đi trễ chứ giờ cô Khưu sĩ Huệ thì đố! Chưa tới giờ đã đủ mặt … bá quan văn võ!

 Và cứ thế, cuộc đời sinh viên của chúng tôi khi nổi, khi chìm. Cho đến một ngày

Ngày 30.04.1975!

Mệnh nước trầm luân!

Mệnh người phiêu bạt

 

Thưa các thầy cô!

Con, học trò của quý thầy cô, đã từ bao nhiêu năm rồi.

Ngày 30.04.1975, nước mất, nhà tan! Thầy cô và chúng con cũng theo dòng sinh mệnh của dân tộc mà chung cảnh trầm luân!

Ngày vào Sư phạm, con mang ước vọng cũng như quý thầy cô, đem kiến thức đã được truyền thụ để hướng dẫn cho các thế hệ đàn em, làm cho các em hiểu và yêu mến tiếng Việt, tự hào về dân tộc mình. Nhưng thầy cô ơi! Con đã không làm được điều thầy cô kỳ vọng ở chúng con! Con rất buồn! Nhưng biết làm sao hơn được?!

Giờ này, sau bao cuộc bể dâu, quý thầy cô và chúng con chắc cũng khó lòng mong một ngày trở về, đoàn tụ dưới mái trường Sư phạm thân yêu!

Quý thầy cô, nếu còn thì cũng đã quá trọng tuổi và nhiều thầy cô đã trở về cùng cát bụi!

Những Lương sư đã không thấy được ngày Hưng Quốc!

Đau lòng xiết bao!

Giờ đây, con cũng như các bạn hữu chỉ xin kính chúc các thầy cô còn hiện diện với chúng con hai chữ an khang và với các thầy cô đã đi vào cõi thiên thu, con nguyện xin Thượng đế đưa quý thầy cô của chúng con về miền Vĩnh phúc!

Và chúng con xin chân thành cảm tạ công ơn giáo dục của quý thầy cô cho chúng con được như hôm nay. Có thể chúng con không thành công nhưng ít ra quý thầy cô cũng có thể mỉm cười khi biết chúng con, lớp hậu sinh của quý thầy cô đã thành nhân! Và câu châm ngôn “Lương Sư Hưng Quốc “ với riêng con, là điều tâm niệm mãi mãi.

Kính và thương,

Con,

Vũ hoàng Hoa

(Trong Trang Văn Chương Miền Nam)

Nguồn:

https://groups.google.com/g/70ab/c/7e-qSnkhEqM?pli=1

06 tháng 11, 2025

VTM 180_Chuyện ngày xưa_Hương Lệ Oanh VA

 





Xướng:

Chuyện ngày xưa 

Tuổi thơ mới độ trăng rằm
Ngẩn ngơ trước gió âm thầm chiều mưa
Bây chừ nhớ chuyện ngày xưa
Lâng lâng xao xuyến như vừa biết yêu
Thơ ngây mơ mộng thật nhiều
Nào là hoàng tử các triều đại vua
Đêm qua có gió giao mùa
Bàng hoàng chợt tỉnh mới vừa chiêm bao
Thời gian thắm thoát qua mau
Lần tay tính nhẩm tuổi cao ngất trời
Hôm nay bổng thấy yêu đời
Bâng khuâng chợt tỉnh thảnh thơi tâm hồn
Hương Lệ Oanh VA
Oct. 2025

Họa 1:


Hương xưa

Vườn xưa trăng rạng đêm rằm
Người đi xa xứ khóc thầm trong mưa
Bây giờ kể chuyện đời xưa
Lòng nghe nặng trĩu cho vừa chữ yêu
Học trò xây mộng quá nhiều
Mơ em mười sáu hoàng triều cung vua
Nằm nghe gió lạnh đầu mùa
Mùa thu chợt tắt cho vừa chiêm bao
Phù du một kiếp tàn mau
Lần tay đếm lại dáng cao cuối trời
Nhưng sao ta vẫn yêu đời
Buông rơi phiền muộn thảnh thơi trong hồn
Nguyễn Cang
Oct.15, 2025

Họa 2:

Nhân sinh

Mỗi năm tháng tám ngày rằm
Trung thu lại đến ước thầm không mưa
Ngồi đây nhớ lại năm xưa
Tuổi thơ trong trắng lại vừa đáng yêu
Trưởng thành ước vọng quá nhiều
Tránh xa cái cảnh quan triều chúa vua
Trăng lên lấp lánh gió mùa
Ước mơ công toại cho vừa xiết bao
Nhân sinh biến đổi thật mau
Giữ gìn đức hạnh ngước cao nhìn trời
Dấn thân thiện nguyện giúp đời 
Ngắm trăng tự tại thảnh thơi tâm hồn
PTL
Oct. 2025
 tự tại 自在: An nhàn tự đắc, thân tâm khoan khoái

Họa 3:

Nhớ chuyện xưa

Trăng vừa tóa sáng đêm rằm,
Mây đen vần vũ báo thầm cơn mưa.
Thẩn thờ nhớ chuyện xa xưa,
Một thời áo trắng tuổi vừa vào yêu.
Buồng tim rộn rã thêm nhiều
Gặp nàng bối rối như triều kiến vua
Lời thương không nói bao mùa,
Trao nhau ánh mắt thật vừa biết bao.
Thời gian vun vút trôi mau,
Mấy mươi năm đã ngút cao tuổi trời.
Gặp nhau đôi hướng dòng đời
Niềm riêng trao gửi thanh thơi chút hồn.
Minh Tâm

Họa 4:

Thoáng xót xa đưa 

Bốn mùa mờ tỏ mấy rằm
Quanh năm suốt tháng lầm thầm nắng mưa
Xa quê nhớ lại chuyện xưa
Nửa buồn xót dạ nửa vừa thương yêu
Bạn thầy yên phận đã nhiều
Hậu cung tĩnh lặng tiền triều không vua
Núi sông trầm lắng chuyển mùa
Huế muôn đời tiết nghĩa vừa xiết bao
Gió thời suy thịnh thổi mau
Lục bình gặp nước dâng cao lên trời
Ngẫm muôn sự thế ở đời
Giữ tâm an đinh cho thơi thới hồn
TQ
Oct. 18, 2025 

1. Tân nhạc: Chuyện ngày xưa
Sáng tác: Trúc Phương
Ca sĩ: Trinh Nam Phương






2. Cổ nhạc: Xin trả lại thời gian
Soạn giả: Viễn Châu
Tân nhạc: Thanh Sơn
Nghệ sĩ: Thùy Dương




Tân nhạc:

Xin trả lại những kỷ niệm buồn vui
Ngày xanh đã theo thời gian qua mất rồi
Ngồi viết tâm sự nhớ ngược về quá khứ
Chợt lên nét suy tư, bao năm thầm kín
Trót thương tà áo tím
Những đêm sương lạnh nghe trái sầu rót vào tim

Thương rất nhiều mái tóc xõa bờ vai
Tình khôn lớn nơi chờ mong ôi quá dài
Lòng vẫn u hoài thấy chuyện tình đổi thay
Đời ai biết được ai, chia ly là hết, xót xa nhiều cũng thế
Nếu mai sau gặp… xin cúi mặt… làm ngơ

Vọng cổ

Câu 1:

Xin trả cho ai những tiếng yêu thương những lời hò hẹn, những buồn vui kỷ niệm đã xa… rồi.
Thu đã về trên mái tóc u sầu.
Nhớ thuở thầm yêu tà áo tím, mưa gió ngoài trời lạnh buốt tim tôi.
Đã vì ai thức trắng đêm thâu, chép nhớ thương vào trang nhật ký.
Đã vì ai đứng ngóng buổi tan trường, ngẩn ngơ nhìn cánh phượng bay lộng gió.

Câu 2:

Ôi thương biết bao nhiêu màu áo trắng, tình lớn dần theo tháng rộng năm dài.
Bao nhớ thương đem góp lại thành lời.
Buổi đầu tiên anh chờ em cuối ngõ, để nói lên lời nói yêu thương.
Em cuối mặt má hồng e thẹn, tay mân mê tà áo thướt tha.
Tia nắng nhạt trải vàng trên lối cũ, lòng rộn ràng như chấp cánh bay xa.

Tân nhạc

Thời gian có ngừng đi bao giờ,
Thương tiếc rồi cũng làm buồn vu vơ,
Nhiều lúc muốn quên để xóa mờ,
Nhưng mỗi lần nhìn xuân
 về tưởng nhớ,
Người đó ta đây,
Tình vẫn chia phôi

Biết cuộc đời mình ra sao.

Vọng cổ

Câu 6:

Người ơi! nếu mai đây có còn gặp gỡ, thì xin  người cứ ngoảnh mặt làm ngơ.
Hãy xem như chưa quen biết
 bao giờ, để mặc tôi với chuỗi ngày cô độc.
Đời đã không như lòng mình mơ ước, thì thôi đừng tưởng nhớ mà chi.
Hãy để mình tôi với buồn vui kỷ niệm, lấy đắng cay làm hương vị cuộc đời.
Xin hãy để mình tôi thổn thức, để mình tôi nuối tiếc chuyện tình xưa
Lời âu yếm bây giờ nghe lạc lõng, nhớ thương giờ xin trả lại thời gian.

22 tháng 10, 2025

Người lữ khách cuối cùng_Phan Cao Tri

 Người lữ khách cuối cùng 

Phan Cao Tri

Suốt 20 năm, ông cụ lặng lẽ sống ở sân bay, như cái bóng giữa dòng người qua lại, ai cũng từng chỉ trỏ, bàn tán. Cho đến một ngày, sự thật về thân phận ông khiến tất cả phải lặng người trong xúc động.

Sân bay Tân Sơn Nhất những năm gần đây đã trở nên hiện đại và náo nhiệt hơn bao giờ hết. Hành khách kéo vali lộc cộc, tiếng loa thông báo chuyến bay vang vọng đều đặn, những cuộc chia ly và đoàn tụ nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Giữa dòng người hối hả ấy, chẳng ai không từng nhìn thấy một hình bóng quen thuộc – một ông cụ gầy gò, tóc bạc trắng, khoác chiếc áo khoác cũ kỹ, ngồi lặng lẽ bên góc ghế chờ gần cổng ra vào quốc tế.
 
Người ta gọi ông bằng nhiều cái tên: “ông cụ sân bay”, “người lang thang thời gian”, thậm chí có người đùa gọi là “hồn ma lạc lối”. Có những đứa trẻ chỉ vào ông rồi thầm thì với mẹ cha, người lớn cũng từng ái ngại mà bỏ lại vài gói mì tôm, chai nước, hay đôi khi là tờ tiền lẻ. Nhưng ông chưa từng xin ai bất cứ điều gì. Ông chỉ ngồi đó, mắt nhìn xa xăm như chờ đợi một điều gì đó sẽ đến từ những chuyến bay không ngừng cất cánh và hạ cánh mỗi ngày.
 
Không ai biết ông đến từ đâu. Không ai rõ vì sao ông lại chọn sống suốt 20 năm giữa nơi nhộn nhịp này, nơi mà ai cũng chỉ dừng lại tạm thời, chứ chẳng ai ở lại vĩnh viễn.
- “Ông ta bị mất trí nhớ.” – một anh bảo vệ từng nói với cô lao công.
- “Không phải đâu, nghe đâu ông ấy từng là Việt kiều, bị con cái bỏ rơi lúc về nước.” – chị bán cà phê trong sân bay thì thầm.
- “Cũng có khi là gián điệp thời chiến, không dám để lộ danh tính.” – có người thêu dệt, kèm nụ cười nửa miệng.
Mỗi người một giả thuyết, một mảnh ghép vụn vặt để cố ghép nên câu chuyện chưa có hồi kết. Nhưng ông cụ thì chẳng bao giờ giải thích. Ông chỉ lặng lẽ sống – như thể sự im lặng của ông là một phần của những âm thanh ồn ào kia, là tiếng ngân dài của thời gian bị lãng quên.
 
Một ngày đầu mùa thu năm ấy, khi mưa Sài Gòn kéo đến bất chợt, một cô phóng viên trẻ tên là Hà xuất hiện tại sân bay. Cô được giao thực hiện một phóng sự về “cuộc sống thường ngày ở sân bay”, và khi lướt qua góc ghế quen thuộc, cô thấy ông cụ – ướt lấm tấm mưa, tay ôm khư khư chiếc va-li cũ sờn góc. Tò mò, cô dừng lại hỏi chuyện.
Lúc đầu, ông không trả lời. Nhưng cô gái trẻ không bỏ cuộc. Cô mang nước, mang bánh mì, thậm chí ngồi cùng ông cả buổi chiều mà chẳng hỏi gì thêm. Cô chỉ kể về mình – một cô phóng viên tỉnh lẻ lên thành phố, làm nghề vì đam mê kể chuyện của con người.
 
Sau ba ngày như thế, ông cụ cuối cùng cũng lên tiếng – bằng một chất giọng trầm, rõ ràng và đầy cảm xúc.
- “Cháu có tin là có những người sống cả đời chỉ để đợi một người không?”
Hà ngỡ ngàng. Lần đầu tiên, ông cụ không còn là một bóng mờ, mà trở thành một con người – với giọng nói, ký ức, và một trái tim chưa bao giờ thôi chờ đợi.
 
Chuyện của 40 năm trước

Ông tên là Trần Văn Minh. Năm 1975, ông theo chuyến bay định mệnh rời Việt Nam sang Mỹ cùng vợ và con gái nhỏ, chỉ 3 tuổi. Nhưng giữa cảnh hỗn loạn lúc ấy, ông bị thất lạc vợ con ở sân bay. Máy bay không thể quay lại, và thế là ông đi một mình – mang theo nỗi day dứt, mang theo trái tim bị xé đôi.
Cuộc sống ở Mỹ không dễ dàng, nhưng ông luôn giữ hy vọng một ngày sẽ quay lại tìm vợ con. Ông học hành, làm việc, tích cóp từng đồng. Sau 20 năm, khi đã đủ điều kiện, ông trở về – nhưng không còn ai ở địa chỉ cũ, không còn tin tức. Họ đã biến mất như cơn gió năm nào.
Ông lục tung hồ sơ, tìm đến từng nơi có thể. Nhưng chẳng có gì. Duy chỉ có một điều ông giữ chắc trong lòng: vợ ông từng nói, nếu một ngày nào đó bị lạc nhau, hãy quay lại sân bay, nơi họ từng bắt đầu chia xa.
 
Và thế là ông trở lại Tân Sơn Nhất – ngày đó ông 60 tuổi. Giờ đã 80. Hai mươi năm ông sống ở đây, mỗi ngày đều dõi theo từng chuyến bay, từng khuôn mặt. Có lần ông tin là đã thấy bà – một người phụ nữ tuổi lục tuần, ánh mắt rất giống – nhưng rồi bà quay đi, ôm tay một người đàn ông lạ. Ông không đuổi theo. Vì ông sợ sai. Và cũng vì, ông nghĩ, nếu là bà – chắc chắn bà sẽ nhận ra ông.
- “Cháu biết không,” ông khẽ cười, đôi mắt đầy nước, “Mỗi ngày trôi qua, ta sợ không còn đủ thời gian. Nhưng ta vẫn ngồi đây, vì nếu bà ấy còn sống, chắc chắn sẽ quay lại. Chúng ta đã hứa với nhau…”
 
Tin tức gây chấn động

Hà lặng người. Cô quay về với cuốn băng ghi âm, và chỉ trong vài ngày sau khi phóng sự “Người lữ khách cuối cùng” được đăng tải, mạng xã hội bùng nổ. Bài viết lan tỏa với hàng trăm nghìn lượt chia sẻ. Nhiều người cảm động rơi nước mắt, nhiều Việt kiều liên hệ cô để hỏi thêm thông tin.
Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra.
Một người phụ nữ tên là Trần Thị Ngọc Linh – hiện sống tại Melbourne, Úc – liên hệ với Hà, gửi ảnh chụp bà cùng mẹ ngày còn nhỏ. Hà run rẩy khi nhìn thấy cô bé trong ảnh – đôi mắt giống hệt ông cụ, và sau lưng tấm ảnh là dòng chữ “Gửi ba Minh, nếu ba còn sống, con vẫn chờ.”
Cuộc gọi video đầu tiên trong 45 năm – giữa ông Minh và con gái – là những tiếng nấc, là những “ba ơi”, “con đây”, là những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt già nua và khuôn mặt đã trở thành mẹ.
Họ hẹn gặp nhau – không phải ở sân bay – mà ở chính căn nhà nhỏ ông đang được chăm sóc bởi một nhóm tình nguyện sau khi câu chuyện lan rộng.
 
Ngày đoàn tụ

Ngày hôm ấy, trời Sài Gòn nắng dịu. Bà Linh – giờ đã là một phụ nữ gần 50 tuổi – bước xuống từ xe, tay run rẩy cầm theo chiếc khăn tay cũ màu hồng, thứ duy nhất còn giữ từ mẹ cô – và là bằng chứng cuối cùng của mối liên kết máu thịt.
Ông Minh, ngồi trên chiếc ghế gỗ trong sân nhà, nhìn thấy con gái bước vào – không nói được lời nào. Chỉ có hai cánh tay run run dang ra, và cái ôm nghẹn ngào kéo dài mãi mãi như thể thời gian đã ngừng trôi.
- “Ba vẫn ngồi chờ con suốt 20 năm… ở cái nơi lần đầu ba mất con.”
-  “Con xin lỗi, ba… Con cứ tưởng ba đã không còn…”
 
Và sau đó…

Không ai còn thấy ông cụ ngồi ở sân bay nữa. Góc ghế quen thuộc giờ trống trải, nhưng trong lòng mọi người vẫn in hình bóng ông. Người bảo vệ năm xưa cũng thay đổi thái độ, nói với ai đó mới đến: “Nơi đó từng có một người cha, sống bằng niềm tin, chờ đợi suốt nửa đời người.”
Hà kết thúc phóng sự của mình bằng một dòng đơn giản:
“Không phải ai đi sân bay cũng chỉ để đi. Có người, ở đó, chỉ để chờ.”

Phan Cao Tri

21 tháng 10, 2025

13th Anniversary of the Professor Khuu Si Hue 's death

 


Mrs Khuu Si Hue was born in 1934 at Tra Vinh province, South Vietnam . In 1952 she attended the school of Pedagogy of the National Taiwan University. She earned Master degree in Education from the national Chenchi University in Taiwan. She taught in Taiwan  until  she returned to Vietnam in 1963 and taught at the school of Pedagogy of the university of Saigon . She is a boat people during the the fall of Saigon and  passed away on Oct. 18, 2012 in Virginia.

 Phat Tran Lam was her student from 1969 to 1972.




18 tháng 10, 2025

Gọi là Việt kiều hay Người Việt hải ngoại?_Lê Vĩnh Húy

 

Default Tãn mạn cuối tuần: Gọi là Việt kiều hay Người Việt hải ngoại?

"Kiều" đây không phải nàng Kiều của Nguyễn Du, mà là chữ Kiều trong "Việt kiều". Chữ Kiều 僑 nầy có nhiều nghĩa như sau:
– Nếu là động từ, Kiều là ăn nhờ ở đậu. Thí dụ: "Kiều cư" là ăn nhờ ở đậu nơi đất khách.
– Là danh từ, Kiều chỉ người sống nhờ làng nước khác. Thí dụ: "Hoa kiều" là người có quốc tịch Tàu sống ở nước ngoài[1];
– Là phó từ (?), thì nghĩa là tạm thời. Thí dụ: "Kiều trí" là mượn tên đất này đặt cho đất khác[2].

(Minh họa)

Dù thuộc từ loại nào, "Kiều" cũng hàm ý nghĩa là tạm bợ, trôi nổi bềnh bồng.

Trở lại với "Việt kiều", lâu nay người ta vẫn dùng danh từ này để gọi chung những người Việt Nam sống ngoài đất nước, cách gọi này vừa hàm hồ vừa thấy bất cập.

Vậy, "Việt kiều" là ai đây? Nếu hiểu cho đúng nghĩa thì đó là những người có quốc tịch Việt Nam nhưng đang sống ở nước khác.

Từ xưa, đã có người Việt di cư qua nước khác, nhưng chỉ có lác đác, không hình thành được cộng đồng người Việt ở nước ngoài[3]. Phải đợi đến sau cơn quốc biến 30-4-1975, làn sóng người Việt di tản mới ồ ạt và hình thành ra những cộng đồng lớn sinh sống ở các nước.

Khi những di dân đó đã thành đạt ở xứ người thì họ được kêu "Việt kiều", với ý nghĩa có sự tâng bốc. Chữ "Việt kiều" này là do người trong nước đặt ra thôi, còn người Việt ở nước ngoài hiếm khi tự xưng như vậy và nếu có cũng là với ý tự châm biếm làm chính. Ở các nước mà người Việt đến sinh sống, người ta cũng không gọi họ là "Việt kiều", mà gọi là "người tỵ nạn" (refugee), hoặc "thuyền nhân" (boat people).

Khi những người tỵ nạn này đã có thẻ thường trú nhân hoặc đã nhập tịch nước khác, thì họ không còn là công dân Việt Nam nữa. Từ nay, với quốc tịch khác, họ có những quyền lợi và trách nhiệm với tổ quốc mới đã chọn, những sự ràng buộc cũ với Việt Nam đã cắt đứt. Họ trở thành là người Anh, Mỹ, Pháp, Đức… đang sống ở Đức, Pháp, Mỹ, Anh. Chẳng có duyên cớ gì để gọi họ là "Việt kiều" nữa mà phải là "người Mỹ gốc Việt", "người Pháp gốc Việt", vân vân.

Do sai lầm hoặc cố tình ngộ nhận mà đã đẻ ra lắm danh từ lạ lùng và vô duyên, như kêu người Hàn gốc Việt là "Hàn kiều", người Thụy Sĩ gốc Việt thành "Thụy kiều",…

Thí dụ như vầy nha: Một người Việt qua định cư và nhập tịch ở Mỹ, người đó bây giờ là "người Mỹ gốc Việt". Nếu về Việt Nam chơi, thì người đó là người Mỹ gốc Việt, gọi "Việt kiều" là vu cáo, vì ông/bà đó có ăn nhờ ở đậu của ai đâu? Và sự thể sẽ rất vui, nếu người Mỹ gốc Việt này lại về Việt Nam tạm trú để làm ăn chi đó, lúc này phải kêu họ là "Mỹ kiều", không thể nói là "Việt kiều" được. Vì họ được Đại sứ quán hoặc các Lãnh sự quán Hoa Kỳ bảo đảm quyền lợi, còn chính quyền Việt Nam chỉ dành cho họ những sự đãi ngộ đối với người nước ngoài mà thôi.

Từ chỗ nhìn nhận chữ "Việt kiều" để áp dụng riêng chỉ ra những người thành công, có sản nghiệp ở nước ngoài, rồi nưng niu biến thành "khúc ruột ngàn dặm", đã dẫn tới hậu quả oái oăm: những "Việt kiều" đích thực, theo đúng nghĩa "ngụ cư" của chữ Kiều, lại chẳng có ai muốn ngó ngàng đến.

Việt kiều thiệt thọ là ai? Đó là những người Việt đang sống chui, tạm bợ, không có giấy tờ tùy thân, là những công nhân xuất khẩu lao động, những du học sinh đang đi tu nghiệp ở nước ngoài.

Trong khi người ta trải thảm đỏ mời gọi giới đầu tư gốc Việt mang vốn từ nước ngoài về xây dựng đất nước thì phần lớn Việt kiều thiệt sự lại bị lãng quên, thậm chí khinh thị.

Vậy đó, Việt kiều đáng lẽ ra là một bộ phận mà đất nước phải cưu mang lại được hiểu ra thành những người gốc Việt có của ăn của để, với ẩn ý nhắc nhở họ phải… cưu mang cho đất nước.

* * *
Tóm lại, danh từ "Việt kiều" (gần đây biến thể thành "kiều bào") đã bị hiểu sai, biến dân xứ người thành dân nước mình của nhà nước Việt Nam. Chính quyền này không phải thiếu sáng suốt đến độ không nhận ra một sự thật hiển nhiên là có những người Việt Nam không mang (và cũng không muốn mang) quốc tịch Việt Nam, nhưng người ta vẫn cố níu kéo vô gốc gác đồng hương cũ để khuyến dụ, chài mồi ngoại tệ.

Hãy dùng chữ cho đúng, chỉ dùng danh từ "Việt kiều" để gọi những người có quốc tịch Việt Nam đang sống ở nước ngoài; còn với người đã là thường trú nhân hoặc mang quốc tịch khác thì là "người gốc Việt", hoặc "người Việt hải ngoại". Như vậy, để khỏi gây ra ngộ nhận cho các thế hệ sau!

***

[1] "Hoa kiều" là tiếng để gọi những người Tàu sống ở nước ngoài. Miền Nam trước đây thường gọi Tàu là Hoa kiều, nhưng kể từ sau năm 1958, khi dân Tàu đều phải nhập Việt tịch thì ở Việt Nam không còn gọi là Hoa kiều nữa. Người Tàu vốn phân biệt rạch ròi: Chỉ có thế hệ di dân đầu tiên, là người còn mang quốc tịch Đài Loan đang sống ở nước ngoài mới kêu "Hoa kiều"; còn đã lấy quốc tịch khác thì gọi là "hải ngoại Hoa nhơn" (người Tàu ở nước ngoài); và con cháu những Hoa kiều, Hoa nhơn đó (được sinh ra ở ngoài tổ quốc) thì kêu là "Hoa duệ", hậu duệ của người Tàu.

Mà tiếng "Hoa duệ" này cũng có phần hạn chế, chỉ dùng để gọi đến thế hệ thứ 5 mà thôi, từ thế hệ thứ 6 trở về sau kể như không dính dáng gì đến Trung Hoa nữa. Điều này rất khác với người Việt, là cái gốc Việt kia cứ được tính đếm dài dài, con cháu mấy chục đời sau, đã xa quê gốc thăm thẳm chiều trôi vẫn cứ bị nhận là họ hàng!

[2] Nguyên thời xưa loạn lạc, có nhiều quận huyện tiêu vong, dân cư xứ đó dời qua xứ khác mới mượn tên cố quận đặt cho vùng đất mới. Như bên Tàu thời Nam Bắc triều, ở Sơn Đông có Duyện Châu, dân xứ đó bởi loạn lạc phải chạy qua Quảng Lăng thuộc Giang Tô trú ngụ, đất mới này được đặt tên Nam Duyện Châu. Ở miền Nam Việt Nam, trong cuộc di cư của đồng bào ngoài Bắc vô Nam năm 1954 cũng có những địa danh được “di cư” theo như vậy. Từ đó, có thêm chữ "kiều quận", "kiều châu", "kiều huyện".

[3] Trường hợp con cháu nhà Lý trước hiểm họa bị nhà Trần tru diệt, đã phải đào thoát qua đến Nhật Bổn, Triều Tiên… Đó là những cuộc di tản quy mô, nhưng cũng chỉ hạn chế trong dòng tộc, số lượng vài trăm người, không đủ hình thành một cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Lê Vĩnh Húy 

18-8_Ngày Giỗ Cô _PTL

 



Cô Khưu Sĩ Huệ
Cựu Giáo sư Đại Học Sư Phạm Sài gòn

18-8 Ngày Giỗ Cô

Mười ba năm trước Cô về tiên cảnh
Giã biệt dương trần thanh thản ra đi
Nhìn thấy Cô mà chẳng nói được gì
Mắt đẩm lệ nghẹn ngào không thành tiếng

Đông đủ chật người vào ra thăm viếng
Với những lời tiếc nuối lẫn nhớ thương
Con nhìn Cô, đau đớn luống đoạn trường
Chân khập khễnh, lần đi ra ngoài cửa

Từ hôm đó thầy trò không gặp nữa
Nhớ những lời Cô dạy để thành danh
Giúp đỡ tha nhân cuộc sống an lành
Biết tha thứ khi chọn nghề nhà giáo

PTL
18-8-2025





 1. Trăng Thu Dạ Khúc: Ngày giỗ Mẹ
Soạn giả: Tuấn Cò
Nghệ sĩ: Lạc Bước

Thắp.... nén hương tưởng niệm
Mẹ hiền ơi ! con nhớ thương
Đã mấy năm trường
Con xa Mẹ rồi
Mà con luôn ngỡ mới hôm qua
Lá rơi mỗi độ thu về lòng con nghe nhói đau
Mẹ hiền trên cao
Xin hãy yên lòng
Chúng con giỗ Mẹ
Quây quần cùng nhau
Ôn tích xưa

2. Tân nhạc: Ngày giỗ Mẹ

Sáng tác: Hùynh Quang Linh
Ca sĩ: Trường Sơn







15 tháng 10, 2025

VTM 179_Thu gợi nhớ_PTL

 


Trừơng Trung Học Đất đỏ, tỉnh Phước Tuy năm 1973 sau mùa hè đỏ lửa 1972. Một lớp học bị hủy hoại và những vết đạn còn trên tường .
PTL hướng dẫn học sinh cách cắm trại.

Thu gợi nhớ

Thu lành lạnh học trò tung tăng bước
Mặt hân hoan rộn rã tiếng vui cười
Gợi nhớ về hai tuổi quá đôi mươi
Chốn thôn dã xóm làng còn đổ nát

Ở nơi đó giao tranh chưa dập tắt
Lớp học vang rền tiếng súng đạn bay
Trăng mùa thu chiếu sáng tựa ban ngày
Mảnh gạch bể văng đầy nơi sân cỏ

Thu gợi nhớ ngôi trường nơi xóm nhỏ
Cảnh tiêu điều phía trước lẫn sân sau
Ngày khai trường nhộn nhịp với nôn nao
Lòng hớn hở mặc dù không toàn vẹn
PTL
Aug. 2025

hai tuổi quá đôi mươi: 2+20 : 22 tuổi. Tuổi tốt nghiệp đại học.


Họa 1:

Chiều Thu

Lá thu chuyển màu thầm buồn nhẹ bước
Xưa vô tư ít nói vẫn hay cười
Mới năm nào nay đã sắp hai mươi
Lòng trong trắng tâm hồn chưa tan nát

Chiều thu xuống nắng vàng chưa vội tắt
Theo gió chiều lá úa nhẹ nhàng bay
Cứ từng thu đếm lá rụng mỗi ngày
Con đường cũ bây giờ là thảm cỏ

Bờ đê lưng đồi dọc theo lối nhỏ
Ánh tà dương núp bóng phía rặng sau
Về quê xưa sao dạ thấy nao nao
Bao giông tố nhưng tâm hồn nguyên vẹn
Hương Lệ Oanh VA

Họa 2:

Chợt nhớ 

Vừa bừng sáng trẻ thơ vồn vã bước
Vui như chim rộn rã nói lẫn cười
Ngày tựu trường tấp nập đến mười mươi
Chợt đạn pháo từ đâu làm tan nát

Thật khủng khiếp! Niềm vui kia vụt tắt
Ôi máu xương ràn rụa xác xơ bay
Ai chỉ huy? Sao pháo kích đúng ngày
Lại nhắm đến ngôi trường làng mái cỏ

Tàn ác quá! Nghẹn ngào lòng hỏi nhỏ
Hậu quả này ai sẽ nhận về sau
Mấy mươi năm nhớ lại hết sức nao
Chiến tranh hởi! Lý tình sao cho vẹn
TQ
Oct. 03, 2025


Họa 3:

Thu cảm 

Đêm gió mát, khách nhàn du chậm bước,
Mảnh trăng thu xuyên lá hé môi cười,
Nhẩm tuổi đời đã vượt quá bảy mươi,
Bao sóng gió dập vùi đời hẩm nát.
 
Nhưng hy vọng chẳng bao giờ lịm tắt,
Trên trời xanh ngàn mây trắng còn bay,
Quả đất xoay đêm hết lại sang ngày,
Mưa rồi nắng vỗ về xanh lá cỏ.

Đường danh vọng chẳng so đo lớn nhỏ
Chốn trần hoàn lo trước ắt vui sau,
Chờ trăm năm lòng gợn chút nao nao…
Hồn thanh khiết hằng ước ao giữ vẹn. 
Minh Tâm

Họa 4:

Nhớ Trường xưa

Trời tháng chín khai trường em nhỏ bước
Mẹ dìu con mặt hớn hở tươi cười
Mang tình yêu khát vọng tuổi hai mươi
Thân lữ thứ nhớ quê nghèo rách nát

Trường tôi đó giữa chiến trường chưa tắt
Cảnh hiểm nguy đạn pháo kích mưa bay
Nhưng thầy cô vẫn đến lớp hằng ngày
Hoa vẫn nở trên nền xanh thảm cỏ

Đã xa lắc ngôi trường xưa nho nhỏ
Khắc trong lòng cổng trước lẫn vườn sau
Vẫn rộn ràng chân bước nhẹ nao nao
Mang tâm sự một đời chưa trọn vẹn!
Nguyễn Cang
Sept. 19, 2025


1. Tân nhạc: Ngày Tựu trường
Sáng tác: Thanh Sơn
Ca sĩ: Thúy Hà





2. Cổ nhạc: Lối Thu xưa
Soạn giả: Nguyễn Đức Cường & Quốc Dũng
Nghệ sĩ: Hồ Minh Đương




Tân Nhạc:

Chiều trả về khuôn viên
Sân trường em ngõ vắng im lìm
Thẫn thờ hàng cây nghiêng
Ôm hình em bé nhỏ dịu hiền

Đường trải dài thênh thang
Như hồn anh mở ngõ tuôn trào
Đếm thầm từng bước em đi
Anh ước mình như lá thu vàng.

Để dập dìu bên em
Hôn cài lên tóc xõa vai mềm
Để trải đường em đi
Đưa hồn em tới nẻo êm đềm

Và dạt dào yêu thương
Theo làn mây gởi đến bên người
Dâng trọn tình yêu cao vời
Em vẫn hoài ôm ấp bên đời.

Dâng trọn tình yêu cao vời
Em vẫn hoài ôm ấp... bên đời.

Vọng Cổ:

Câu 1:
Em ơi đường xưa em đi mình anh đếm bước, phượng đỏ trước sân khuôn viên vắng lặng.
Tìm bước em đi sân trường rêu phủ, hàng cây nghiêng nghiêng như chờ đợi bước chân... nàng.

Ôm hình em bé nhỏ dịu hiền.
Đường trải dài thênh thang như hồn anh mở ngõ.
Để âm thầm đếm bước em đi.
Em ơi, em có bao giờ ngoảnh mặt về sau.
Để bắt gặp có người đang chiêm ngưỡng.
Ôi mùa thu lá vàng rơi rụng trời lại xanh.
Mây trắng bay như màu áo cô em gái nhỏ.

Câu 2:
Em ơi lối thu xưa có người đang ước vọng.
Anh ước mình như chiếc lá thu vàng.
Để dập dìu bên em hôn lên gót chân nàng.
Để nhặt lại từng đường tóc rối.
Mà vô tình gió đã hôn lên.
Anh trải đường theo bước em đi.
Theo em đến nẻo êm đềm mộng ảo.
Và dạt dào gửi phút giây hạnh ngộ.
Dâng trọn tình này cho lối thu xưa.

Tân Nhạc:

Nhưng tháng năm vùi chôn đi bao ước mơ
Bao nỗi niềm buồn thương những đêm ngóng chờ
Đời chắt chiu sớm chiều muộn phiền hắt hiu
Em có còn trên lối thu xưa
Hay đã về nơi nẻo xa mờ.

Đời trả về cho anh
Sân trường xưa vàng võ u sầu
Đời dệt mộng em đi
Riêng mình em xót nỗi chia lìa.

Đường mộng nào em sang
Riêng mình anh tựa lá thu tàn
Biết lòng còn mãi mơ màng
Anh vẫn tìm em giữa mây ngàn.

[Biết lòng còn mãi mơ màng
Anh vẫn tìm em... giữa mây ngàn.]

Câu 5:
Lối thu xưa không còn em đếm bước.
Gót chân xưa nay đã về đâu nơi gió núi mây... ngàn.

Bao ước mơ xưa tàn tạ với thu vàng.
Anh sẽ vùi chôn niềm đau vô tận.
Khi sớm chiều mang nỗi sầu thương.
Sao em không còn đi trên lối thu xưa.
Em đã về đâu nơi xa mờ bụi cát.
Buồn phiền hắt hiu tiếng lòng tan nát.
Nhớ thương ai, anh mơ ước bên người.

Câu 6:
Đời trả về cho anh
Sân trường xưa vàng võ u sầu
Đời dệt mộng em đi
Riêng mình em xót nỗi chia lìa.

Đường mộng nào em sang
Riêng mình anh tựa lá thu tàn
Biết lòng còn mãi mơ màng
Anh vẫn tìm em giữa mây ngàn.

Sân trường vắng em nỗi buồn dâng da diết.
Lối thu này về hạ vàng mãi đi xa.
Tìm em trong tiếng nhạc lời ca.
Lối thu xưa đó em giờ nơi đâu.