Vườn Thơ Tài Tử là nơi hội ngộ những người có tâm hồn thơ văn.
Đây là sân chơi phi chính trị, phi lợi nhuận của những người không chuyên nghiệp về thơ văn để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Tôn chỉ của VTTT là:
Cao nhân tất hữu cao nhân trị
高人 必有高人 治
( Luôn luôn có người giỏi hơn bạn; There is always somebody better than you )
Thu đi Thu đilá rụng đầy sân
Nhìn cây trơ trọi bâng khuâng nhớ nhà
Trãi qua bao lớp phong ba
Cuộc đời còn lại có là bao lâu Suốt đêm
trăn trở buồn rầu
Trảiqua mấy lượt bể dâu trong đời Ánh trăng vằng vặc sáng ngời Làm thơ xướng họa cho vơi nỗi niềm Lá rơi lã chã trước thềm Nhớ về quê mẹ êm đềm năm xưa Ngòai hiên tí tách giọt mưa Gió thu lành lạnh đong đưa cơn sầu PTL Virginia 18-10-2022
Lá vàng rơi rụng ngoài sân Tâm tư chợt thấy bâng khuâng nỗi nhà Nhớ từng làn sóng thu ba Ngày xưa đôi tám thế là đã lâu Bây giờ nhắc lại thêm rầu Bao lần bể hóa nương dâu cuộc đời Mặt hoa điểm nét rạng ngời Bây giờ tiếc nuối chơi vơi mọi niềm Cuối thu lá rụng bên thềm Những thời thơ ấu êm đềm thuở xưa Vào thu có những chiều mưa Mây thu bàng bạc tiễn đưa giọt sầu
Hương Lệ Oanh VA
Dec. 13,
2022
Họa 3:
ThuBiệt Ly
Thu tàn lá chết ngoài sân Có người lữ khách lần khân hỏi nhà Kinh thành gợn sóng âm ba Anh em ly tán biết là dài lâu Nhiều đêm thao thức lo rầu Tấm thân trần thế biển dâu tình đời Đêm nay trăng sáng ngời ngời Trà thơm một chén mong vơi mọi niềm Sương rơi ướt đẫm bậc thềm Nhớ về quê cũ êm đềm ngày xưa Bên song rả rich tiếng mưa Giọt rơi trên lá giọt ru tình sầu!
Nguyễn Cang
Nov.13, 2023
Họa 4:
Bài Thơ Hồi Ức
Chiều vàng
đếm lá ngoài sân Tiếng chim
réo rắc lòng khuâng nỗi nhà Lặng thầm trở
giấc canh ba Vỡ oà sóng
phủ - ngỡ là đã lâu Vang lên từng
khúc thương rầu Bấy lần lặn
hụp nương dâu biển đời Trời cao toả
sắc tinh ngời Tình yêu quê
Mẹ lòng vơi bao niềm Bình minh
trải nắng qua thềm Khơi dòng cảm
xúc êm đềm thuở xưa Yêu sao dáng
Mẹ trong mưa Bài thơ hồi
ức ve đưa tiễn sầu. Kim Trân
Họa 5:
GióThu
Chiều thu gió
lướt qua sân Thổi tung
vàng lá, phân vân nỗi nhà Thân chim di
trú bôn ba Đường dài
xoải cánh biết là còn lâu Trở trăn,
trăn trở thêm rầu Ngày qua
tháng lại nương dâu biển đời Thời gian tia
chớp xanh ngời Quê hương
biền biệt không vơi bao niềm Gió đưa lá
rụng bên thềm Càng khơi nỗi
nhớ u huyền xa xưa Nước mắt
người hòa nước mưa Làm sao gió
lạnh tiển đưa nỗi sầu?
Tâm Quã Dec.
14, 2022
Họa 6:
Thu Buồn
Lá vàng rơi
ngập trước sân, Chạnh lòng lữ
khách tủi thân xa nhà. Đường đời
xuôi ngược bôn ba, Trời quê xa
khuất đã là rất lâu. Càng khơi ký
ức càng rầu, Thuyền xa bến
cũ xuyến xao một đời. Đêm đêm ngắm
ánh trăng ngời, Nghe lòng
thổn thức, chơi vơi nỗi niềm. Gió lay trăng
rụng bên thềm, Tìm đâu những
phút êm đềm thuở xưa? Rì rào trời
đổ cơn mưa, Không gian mờ
mịt khéo đưa thêm sầu…
Nhà
văn Doãn Quốc Sỹ là thầy dạy tôi. Thầy sinh năm 1923, năm nay
tròn 100, còn tôi sanh năm 1936, thầy hơn tôi 13 tuổi, năm nay tôi
cũng đã 87. Tính ra năm thầy dậy tôi cách đây đã đến 70 năm
rồi. Ở cái thời mà ai cũng gọi người dậy học là “Thầy”, dù là từ lớp vỡ lòng cho đến hết lớp trung học chứ không gọi là “Giáo sư” như những năm sau này. Mà người đi học thì gọi là “Học trò” chứ ít ai gọi là “Học sinh”.
Thầy
dậy tại trường Chu Văn An năm nào thì tôi được học thầy năm
đó. Tôi không còn nhớ mấy năm, nhưng tiểu sử của thầy trên mạng
Wikipedia cho biết thầy chỉ dậy ở trường Chu Văn An có một năm
1952-1953, sau khi thầy dậy ở Nam Định một năm 1951-1952. Trang
mạng này, có ghi thầy di cư vào Nam năm 1954, đoạn sau lại ghi
thầy dậy trường Trần Lục tại Sài Gòn năm 1953-1960. Tôi không
nghĩ rằng hai trường Công Giáo Trần Lục và Hồ Ngọc Cẩn dọn
vào Sài Gòn trước năm 1954. Không hiểu niên học 1953-1954, trước
khi di cư thầy dậy ở đâu. Chắc phải kiểm chứng lại mạng này,
và đó là một câu hỏi tôi cần tìm hiểu.
Trường
Chu Văn An là hậu thân của trường Bưởi. Trường Bưởi ở khu Hồ
Tây, bên cạnh đường tầu điện từ bờ Hồ Hoàn Kiếm qua Thụy Khuê
đến trạm cuối là chợ làng Bưởi. Tôi chưa được vào xem trường
này, chỉ ngồi nhìn từ trên xe điện. Nhất là sau này trường bị
chiếm và là hậu cứ của lính nhẩy dù Pháp.
Trường
Bưởi không còn nữa, và để thay thế, trường Chu Văn An được
thành lập sau khi thành phố Hà Nội được vãn hồi an ninh. Trong
đời, tôi chưa thấy một trường trung học nào như thế. Bây giờ
muốn kể lại chuyện mà đầu óc ngày càng rỗng, thiếu chữ
nghĩa để nói về ngôi trường đó, về cơ sở, về tổ chức, về
những vị thầy cũng như cung cách về nền giáo dục và bọn học
trò như chúng tôi.
Trường tọa
lạc tại đường Đỗ Hữu Vị, trước cổng thành Thăng Long, Cửa Bắc
mà tôi đã có vài lần đến xoa tay vào mấy vết đại bác do quân
Pháp bắn vào chân tường thành trong thế kỷ trước mà hai vị
tướng trấn thủ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã phải tuẫn
tiết theo thành.
Nhà tôi ở khu
Hàng Bún, ngôi nhà hai tầng ở góc đường Yên Ninh và Phạm Hồng
Thái, phía bên kia là khu Nhà Đèn, tức là nhà máy điện lớn
của thành phố. Nhiều hôm, nhà máy nhả khói. Bụi than bay khắp
vùng, phủ đen dưới đáy các chậu nước. Lần về thăm căn nhà cũ
năm 1994, thấy cảnh nhà máy này bị bom san bằng, chính xác đến
nỗi mà các khu phố xung quanh không bị xuy chuyển. Hồi đi học,
tôi thường đi bộ ngang qua phố hàng Bún, ngang qua đường Quan
Thánh, tới đường Đỗ Hữu Vị quẹo trái là tới ngay trường.
Tòa nhà lớn ba
tầng chạy dài, phải dùng đến ba cầu thang. Cầu thang chính ở
giữa tòa nhà và hai cầu thang ở hai đầu, mà cầu thang nào
cũng bằng gỗ trắc, bóng nhẵn như ở các dinh thự. Hành lang
trên các tầng rộng rãi, nhìn xuống sân. Các phòng học thì
khỏi nói. Trường lại có một phòng thí nghệm trang bị những
chai lọ hóa chất, ống nghiệm và một phòng hội họa mà mỗi
học trò đều có một giá vẽ như một họa sĩ thứ thiệt. Nhưng
phải nói đến cái cung cách của học đường ngày đó, cái cung
cách được phối hợp của nền giáo dục Đông Phương và Âu Tây của
người Pháp mang đến. Không có cái tình trạng bát nháo như ngày
nay.
Giáo
Sư/Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ trong Lễ Mừng Thọ 100 tuổi được tổ chức tại
Westminster, California ngày 10 Tháng Mười Hai 2022 (ảnh: Trịnh Thanh
Thủy)
Cụ Doãn Quốc Sỹ cùng GS Trần Huy BíchCựu học sinh Nguyễn Khuyến, Nam Định lên chúc mừng sinh nhật cụ Doãn Quốc SỹHội ái hữu Viện đại học Vạn Hạnh chúc mừng sinh nhật cụ Doãn Quốc Sỹ
Ai
cũng biết, học trò quỷ quái thường sinh ra trong những năm rỗi
rãi không lo việc thi cử, nhất là trong các trường công lập. Đệ
Thất thì còn non, đó là hai năm Đệ Lục và Ngũ, tôi ở trong
các lớp đó, xin các thầy tha tội cho chúng nó. Thầy Hùng Lân
dậy Nhạc, cũng là môn phụ, nhưng không một học trò nào dám
rỡn với thầy.
Thầy rất
nghiêm, đứa nào lờn mặt là thầy bắt ngửa tay lấy thước đánh
như học trò tiểu học, thầy gọi là cho mấy hèo và còn phạt
giam “consigne” ngày cuối tuần. Nhưng thầy là
một người dậy nhạc rất giỏi, thầy soạn ra mấy quyển sách
giáo khoa về nhạc rất sư phạm cho bậc trung học. Tôi còn nhớ
một số bài, thầy chỉ cần ba note chính mà thành một bản nhạc
đầy đủ, tình tự, như bài sau đây dùng ba note cung trầm đồ, mi
sol:
“Chiều tà sương lam lắng xuống thôn Tiếng sáo xa đưa hiu hiu buồn Trăng lên dần nhấp nhô đầu núi Trên đê mờ đàn trâu bước dồn.”
Trong
một trận chiến khốc liệt, hai bên cùng tràn lên, lẫn lộn đánh
cận chiến, bỗng hai người lính của hai bên cùng nhẩy xuống
chung một cái hố để tránh đạn. Khi cả hai cùng bừng tỉnh, họ
mới nhận ra là kẻ thù của nhau, đáng lẽ họ phải tìm cách
giết nhau, không hiểu sao họ lại cùng ngồi yên và sau này thành
bạn của nhau. Cái nguyên cớ đó từ đâu, có phải đó là tình
nhân loại đã bật dậy trong lúc đó không?
Những
năm thầy Sỹ đi theo kháng chíến thì tôi cũng bị cuốn đi như
thầy. Tôi mất bốn năm theo cha tôi, cha tôi theo bên nội, tất cả
bên nội tôi đi theo Việt Minh. Tôi làm liên lạc viên cho một cơ
quan Kinh Tài của Liên Khu 3, còn cha tôi vì biết tiếng Pháp nên
làm cho cơ quan Địch Vận thường phải ở sát vùng tề, vùng
địch.
Họ ngoại tôi thì theo
Quốc Gia, về thành, tức là về Hà Nội rất sớm. Người em út
của mẹ tôi, cậu tôi Ngô Kim Cương, đỗ “diplome” tại
trường Bưởi, xin vào làm thông phán Phủ Toàn Quyền đã lâu hồi
còn Pháp đô hộ, theo Quốc Dân Đảng bị bắt ngay sau ngày Việt
Minh cướp chính quyền. Sau đó được giải cứu và lên chiến khu
Yên Bái, chỉ sau một tháng, Việt Minh đem quân bao vây san bằng
chiến khu. Cậu tôi biệt tin từ đó.
Cha
tôi là cán bộ xa nhà, không nuôi nổi gia đình. Mẹ tôi qua những
năm vất vả tại hậu phương, lại phải một mình lặn lội tìm
đường về Hà Nội trước, sau đó mới ra đón cha con tôi về. Nhờ
thế tôi đã bỏ được “Bác”, nếu không thì sẽ trở thành một tên thất học, và rồi chắc cũng khó tránh được cảnh “Sinh Bắc Tử Nam”.
Ara là Nguyễn Hữu Phát, tốt nghiệp khóa 7 SPSG, cựu Trung Úy Biệt Động Quân biên phòng vùng Tây Ninh. Nay ở Bỉ quốc .
Ara quên ghi lại mấy câu hò trong lúc bạn bè về phép:
Con chim khôn lựa cành mà đậu
Con gái khôn kiếm chồng nhậu mà nhờ
...... Để mai sau chết bụi chết bờ .....khỏi chôn
PTL
Rượu và thơ – Ara
Lúc hắn còn độc thân, lang thang khắp nơi, đến nơi nào dù chỉ dăm
ba bữa cũng cà kê với các đồng nghiệp và cũng không thoát được với đám
Lưu Linh.
Tửu lượng của hắn lúc chưa mổ bao tử cũng chỉ thuộc loại làng
nhàng, nhưng tuần chay nào cũng có nước mắt, bạn bè thích kéo hắn ra bàn
rượu ngồi, hắn xỉn dìu hắn về nhà trọ . Hắn cũng biết vào bàn thì nhập
gia tùy tục,ai sao hắn vậy, cứ làm cạn ly đầy kế là rót đầy ly cạn,
tránh tình trạng « đắp mô » mà bàn rượu cũng chẳng ai muốn ép hắn nhiều
vì hắn say thì chẳng ai kể chuyện tiếu lâm mặn, chuyện thi ca tục, không
những bạn nhậu cười hả hê mà các cô bán rượu cũng ôm bụng, chảy nước
mắt. Sau này bị thủng bao tử rồi, chảy máu bao tử, chậm vào nhà thương
là lên bàn thờ nhìn gà khỏa thân, bác sĩ cấm vận rượu, hắn bớt uống vậy
mà cũng lách luật lai rai chút đỉnh, làm vài ba ly rượu đỏ thì được,
nhưng bia hay rượu mạnh hắn cũng e dè.
Phải nói là trong bàn nhậu cũng vui lắm, lúc cao trào, mạnh ai nấy nói, có người còn vừa gõ nhịp vừa hát
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng uống rượu là con Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng
Nhìn con uống rượu hai hàng lệ rơi.
Có lần cô bán rượu phụ họa theo với đám nhậu
Uống rượu không phải để say
Uống rượu để biết đắng cay là gì
Uống rượu không phải để sầu
Uống rượụ đề biết trong đầu nhớ ai.
Cô ả bán rượu này chắc nhại lại câu trả lời khi thắc mắc hàm râu của hắn
Để râu chưa hẳn đã già
Để râu để biết đâu là đàn ông
Để râu phải để cho phong
Nếu không lại tưởng chiếc lông đàn bà
Hắn gom nhặt lại những giai điệu của thi ca hay dân ca trong ca
dao còn vương vấn trong đầu hay một số ở trong net về « rượu » gởi lại
cho những người đồng điệu.
Cũng sắp cuối năm, bao nhiêu lễ tết đang chờ đón, các siêu thị
giới thiệu các mặt hàng, dĩ nhiên không thể nào thiếu rượu, nhà nào cũng
chứa sẵn rượu bia để thết đãi bạn bè, không hẳn nơi trời Âu nơi hắn
đang sống mà ngay ở quê nhà, món này cũng không thể thiếu trong nhà.
Hắn cũng có một quầy rượu be bé, thấy chai rượu ngon mua
về, những chai rượu mạnh chai nào hắn cũng « bẻ cổ » thử, có uống, ai
muốn uống không ngại khi thấy chai rượu không còn nguyên xi.
Đừng kết luận vội vàng cho rằng chứa làm gì cái thứ đó, thứ được
mang danh “rượu vào lời ra”.Chưa hẳn câu này dành cho kẻ « nát rượu » mà
là nói chuyện vui cười trong bàn rượu.
Ngồi vào bàn nhậu đẩy đưa vài ba câu chuyện cho »nóng máy », sau đó bắt đầu « lời ra », mời chào lẫn nhau
Một li nhâm nhi tình bạn
Hai li uống cạn lòng sầu
Ba li mũi chảy tới râu
Bốn li ngồi đâu gục đó
Năm li cho chó ăn chè
Sáu li vợ đè cạo gió.
Chỉ còn là kỷ niệm, khi cơn lụt đi qua tất cả đổ nhào,
những chai rượu ở dưới hầm, ly rượu trên quầy. rơi vỡ, chỉ còn một ít để
trên cao không bị ảnh hưởng. Quầy rượu đã cho người khác
Cái vụ đè ra cạo gió đối với hắn không phải là không có, mà phải công nhận lúc cạo xong tỉnh hẳn người.
Thực ra khi có chút men vào, con người thấy nhẹ nhàng hơn, phóng
khoáng hơn, bặt thiệp hơn, câu chuyện cũng trở nên dễ dãi, duyên dáng,
dí dỏm với nhau hơn và nhất là được mở lòng với mọi người chung quanh,
có những chuyện bình thường không nói được, nhưng khi có chút men trong
người sẽ thoải mái hơn, bá vai bá cổ nhỏ to với nhau nhiều khi mạnh ai
nấy nói cũng chẳng cần biết là ai nghe được điều mình nói… cứ loáng
thoáng câu « nam vô tửu như kỳ vô phong ».
Rượu quan trọng trong đời sống như vậy đã được thể hiện qua hàng
ngàn câu ca dao, ngay từ lúc mới bước chân vào trung học hắn đã được học
câu
… Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi trầm em đeo…
(Chắc là ta cùng đắp chung)
Cũng còn câu ca khác như
Mẹ em tham thúng xôi vò
Tham con lợn béo tham vò rượu tăm
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa
Mà « rượu tăm » là rượu ra làm sao; đấy là phần tinh túy của rượu
cất bằng phương pháp thủ công nghiệp, có nồng độ cao, được nhiều người
sành rượu ưa chuộng, là loại rượu nước đầu tiên lúc chưng cất, nếu cất
được 10 lít rượu chỉ được 1 lít rượu tăm, loại rượu này đóng vào chai,
đừng đong đầy, bịt kín miệng, rồi lắc mạnh chai cho rượu sủi tăm phát ra
âm thanh reo vui. Khi để chai đứng yên, tăm sẽ biến mất… uống một lần
là ghiền là nhớ mãi .
Đố ai nằm võng không đưa
Ru em không hát, anh chừa « rượu tăm ».
Như vậy đã quên hết những lời gia huấn lúc biết chơi biết chạy của cụ Nguyễn Trãi trong gia huấn ca
“Đua chi chén rượu câu thơ
Thuốc lào ngon nhạt, nước cờ thấp cao”
Vậy mà, nhiều bà nhiều cô chiều chồng hay mua rượu cho chồng uống cho dù có phải
Trời mưa sắn ống cao quần
Em đi mua rượu cho chồng em xơi
Chồng hư mang tiếng mang tai
Tiếng tai em chịu hơn ai không chồng
mà chồng uống rượu, vợ lại khen hay, thế mới có chuyện cả hai cùng có lợi.
Thứ nhất là rượu ngà ngà
Thứ nhì là ở đường xa mới về
Hắn đưa lên một số câu hát trong dân gian câu chuyện về rượu hay chuyện uống rượu
và cả đến người uống rượu.
Anh có thương em thì lo một buồng cau cho tốt, một hũ rượu cho đầy,
Đặt lên bàn thượng, hạ xuống bàn xây,
Chàng đứng đó, thiếp đứng đây,
Lẽ mô thầy với mẹ lại không kết nghĩa sum vầy cho con?
Rượu và thơ là một cặp bài trùng, một bài cổ thi nói đến rượu
nhiều người biết đến như bài Lương Châu từ của Vương Hàn hay được ngâm
nga lúc còn trong quân đội mỗi lần dừng quân
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
(Bồ đào uống chén Dạ quang, Muốn say trên ngựa tiếng đàn giục
đi). Nên biết rằng Bồ đào mỹ tửu có màu đỏ thắm, bọn tu mi nam tử chúng
ta uống vào thì chưa đủ hào khí. Khi Bồ đào mỹ tửu được rót vào chén Dạ
quang, màu rượu chẳng khác nào màu máu tươi, uống rượu cũng giống như
uống máu quân thù) Rượu Bồ Đào là vậy .
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Có say trên sa trường cũng đừng cười, vì xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)
Cụ Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm cũng vài ba ly nhưng với phong thái phóng khoáng ẩn dật
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú-quý tựa chiêm bao.
Ai dám nói phụ nữ không biết uống rượu, xem cô quý phi của Nguyễn gia Thiều trong « cung oán ngâm khúc »
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương
Cờ tiên, rượu thánh ai đang
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm …
Ca dao, cổ thi đã vậy, còn các nhà thơ mà hắn biết đến lúc học
trung học không ông nào không làm bạn với Lưu Linh, từ ông Tú Vị Xuyên
Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…
Trong thi ca còn có Phạm Thái (Phạm đan-Phượng) được nhà văn
Khái Hưng vết thành câu chuyện « Tiêu Sơn tráng sĩ », thất tình với
Trương quỳnh Như tìm quên trong men rượu, có làm một bài thơ « yết hậu »
để đời
Sống ở dương-gian đánh chén nhè
Thác về âm-phủ cắp kè-kè
Diêm-vương phán hỏi mang gì đó,
Be
Nhà thơ núi Tản sông Đà cũng là một lưu linh có hạng
Thương ai cho bận lòng đây
Cho vơi hũ rượu, cho đầy túi thơ
Cảnh đời gió gió, mưa mưa
Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say, thơ lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu, thơ, mình lại với mình
Khi vui quên cả cái hình phù du
Trăm năm thơ túi, rượu vò
Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn mãi xuân còn rượu với thơ
Nhìn em như chén rượu đào
Bỏ qua thì tiếc uống vào sợ say.
Nguyễn công Trứ cũng hết mình với bốn món ăn chơi
Cầm, kỳ thi, tửu
Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay
Đàn ngang cung réo rắt tính tình đây
Cờ đôi nước rập rình xe pháo mã
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà
Trót đà khuya sớm với ma men,
Mặc kệ người chê, mặc kệ khen.
Ngó lại hàng rào hương cúc lộn,
Trông ra cửa sổ bóng trăng chen.
Vào vòng cương-tỏa chân không vướng,
Tới cuộc trần ai áo chẳng hoen.
Cứ những ai hay tình thú ấy,
Có chăng Bành-Trạch với Thanh-Liên
(Bài « Uống rượu tự vịnh » của Nguyễn công Trứ)
Đứng đắn như cụ Tam nguyên Yên Đổ mà cũng thót lên câu
Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được.
Chừa được nhưng thôi cũng chẳng chừa.
(Bài « Chừa rượu » của Nguyễn-Khuyến)
Trong thi ca hiện đại cũng nhiều bài nói đến rượu, hắn cũng cảm khái với Yên Lăng trong bài
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì vàng rơi đầy trên mặt chiếu,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Vô tình hắn đọc thêm được một bài của Xuân Mai
Uống cạn chén này thêm chén nữa
Cùng nhau quên hết chuyện ngày qua
Quên hết đau thương mùa binh lửa
Đừng nhắc làm chi thêm xót xa
Xuân Diệu nhiều bài viết cho rằng ông bất lực mà cũng say bên kỹ nữ
…
Tay em đây mời khách ngả đầu say
Đây rượu nồng và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
Người đời biết đến nhà thơ Quang Dũng qua bài »Đôi bờ »
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ Thoáng hiện em về trong đáy cốc Nói cười như chuyện một đêm mơ
hay « đôi mắt người Sơn Tây », vì được phổ thành nhạc, ông còn nhiều bài khác nữa, hắn lại thích bài « Lính râu ria »
….
Cô ơi ly rượu nhỏ
Rượu nhỏ một ly thôi
Đời lính đã kham rồi
Một ly cho đỏ mặt
Cho lên hương cuộc đời….
Ngày hắn còn đi làm ở Phước Long, hôm nào thèm cái « cay cay nồng
nồng » cũng đến cửa hàng thuốc « Quảng sanh đường » nơi bến xe « lì một
lam » dăm ba câu chuyện với cô hàng rượu thuốc, hắn nhớ bài này là
vậy.
Nhà thơ Vũ hoàng Chương còn độc đáo với tập thơ « Say »
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi-lả ánh đèn
Cho cung-bực ngả-nghiêng, điên rồ xác-thịt.
Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát bờ môi.
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi
Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Nhưng em ơi,
Đất trời nghiêng-ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ;
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
(Trong bài « Say đi em » của Vũ hoàng Chương)
Âm ba gờn gợn nhỏ,
Ánh sáng phai phai dần
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân,
Riết đôi tay, ngả đôi thân,….
Câu mà nhiều thanh niên thích và hay ngâm nga
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai
Môt câu cổ thi mang nghĩa « chỉ có rượu mới phá được sầu muộn »
« Sầu thành dục phá tửu vi binh »
Trong dân gian bàn về rượu nhiều lắm , bao nhiêu thi ca được tuôn ra trên chiếu nhậu lâu dần trở thành dân ca
Trong các lễ hội đình đám ở làng quê, không đám nào có thể thiếu
rượu được dù biết rằng rượu có thể dem lại những thói hư tật xấu trong
dân gian, ai cũng biết là
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thì hư vậy, say thì cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười ?
Khi có chút rượu vào trai gái mới có can đảm thốt lên những hện hò thề ước lứa đôi.
Cũng với những hình ảnh rượu được đưa vào những điệu hát câu hò
cũng bày ra trước mắt những thói hư tật xấu cũng vì ma men dẫn lối đưa
đường, những cô hàng rượu yếm thắm liếc mắt đưa tình
Còn trời, còn nước còn non.
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Rượu sen càng nhắp càng say,
Càng yêu vì nết, càng say vì tình
Đầy vơi chúc một chén quỳnh.
Nhậu say có nhiều người tốt tính về nhà ca hát đùa giỡn với vợ con
Có chồng say như trong chay ngoài bội,
Ngó vô nhà như hội Tần Vương!
Cững không phải người uống rượu nào cũng tốt tính
Thế gian ba sự khôn chừa
Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.
Say thời, say ngãi say tình,
Say chi chén rượu mà mình nói say!
Nghe câu này mới thấy anh chàng mồm mép giẻo quẹo tán tỉnh cô hàng rượu đã có chồng
Rượu ngon cái cặn cũng ngon
Thương em chẳng luận chồng con mấy đờị.
Rượu lưu li chân quỳ tay rót,
Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh.
Như thế này thì trách sao dù trời mưa em cũng đội mưa mua rượu cho anh, cả hai bên cùng có lợi mà
Con tằm bối rối vì tơ;
Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình.
Anh chàng này làm một cuộc so sánh thật có duyên, khen rượu hay khen lựu , lan đây
Rượu ngon chưa uống đã say,
Lựu, lan chưa bẻ đã bay mùi nồng.
Rượu say, mê cô bán rượu cũng là chuyện bình thường, như thế vợ ghen mới mắng cho
Rượu men tẩn mẩn tê mê
Mảng theo con đĩ bỏ bê việc nhà.
Rượu hồng đào trút nhào vô nhạo
Kiếm nơi nào nhơn đạo hơn anh.
Ăn một miếng trầu, năm ba lời dặn,
Uống một chén rượu, năm bảy lời giao,
Anh chớ nghe ai sóng bổ ba đào,
Em đây quyết giữ niềm tiết hạnh, anh chớ lãng xao em buồn.
Nem và rượu là một cặp tuyệt vời, anh với em đâu có kém, mình là
một cặp, qua chờ em bên thuyền vắng đó, đố các bạn nem và rượu có nằm
bên nhau không.
Rượu nằm trong nhạo chờ nem
Qua nằm thuyền vắng chờ em một mình.
Đã chịu mua rượu cho chồng « xơi » mỗi chiều, làm sao chịu được cảnh chồng đi » khám điền thổ » chỗ khác, ghen là cái chắc
Rượu nào là rượu chẳng nồng
Gái nào là gái (chẳng) vì chồng hay ghen?
Rượu là vậy, người uống rượu cũng muốn thưởng thức men nồng cũng phải có chút bản lãnh mới hài hòa trong cuộc sống
Rượu ngon bởi vị men nồng
Người khôn bởi vị giống dòng mới khôn.
Rượu cúc sánh với trà lan,
Khi xem hoa nở, khi than Thúy Kiều.
Đốt than nướng cá cho vàng,
Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi.
Chung nhau mấy chén rượu đầy
Không say men rượu lại say men tình
.
Rượu nào là rượu chẳng nồng
Trai nào chẳng khoái Lan, Hồng, Cúc, Mai
Rượu chè cờ bạc lu bù
Hết tiền có mẹ thằng cu bán hàng.
Trong đời sống, rượu cũng giữ một vai trò chính trong phong tục
tập quán và dân tộc tính không chỉ của người Việt mà hầu như quốc gia
nào cũng dính dáng đến cái cay cay nồng nồng này, quan, hôn, tang, tế thiếu rượu là thiếu tất cả, cái quan trọng là đừng để rượu làm chủ bản thân mà sinh ra nhiều điều sằng bậy.
Lúc hắn đi làm ở Phước Long, lúc đó gọi là cao nguyên nam trung
phần, nơi đây có giống dân Stieng, một số ít Bana, được gọi là sắc tộc,
được nhiều ưu đãi, những người dân tộc này có họ là họ Điểu, họ Y, gọi
chung là người Thượng, mỗi sắc tộc có một ngôn ngữ riêng.
Những người Thượng vùng Ban mê Thuột có thổ ngữ khác với những
người Stieng, họ có nếp sống văn minh hơn và những chóe rượu cần cũng có
phần khác nhau, rượu của thổ dân Phước Long cũng làm bằng những ngũ
cốc, tùy theo mùa thu hoạch và được ủ bằng những lá rừng khi thành rượu
trong chóe họ gọi là « rượu ịt », hắn một lần được trưởng thôn sóc « Bù
roai »(chữ Bù giống như là buôn làng, bản làng) người Thượng nơi dây
sống trong những « Bù » . Vì vấn đề tránh không cho họ tiếp xúc với
Thượng cộng nên chính quyền lúc đó thành lập những yếu điểm, nơi hắn hay
ra vào cùng các cán bộ sơn thôn dựng trường học, nhà hộ sinh, cho học
sinh ăn những bữa cơm trưa do cán bộ sơn thôn và ty xã hội đảm trách.
Những lúc xong mùa màng hắn hay được mời ăn uống nơi sóc Thượng
này, họ có cách chế biến món ăn riêng, nhất là gà; gà một số nuôi trong
ống tre, từ lúc mới nở, khoét một lỗ đủ cho thò mỏ ra ăn, con gà chỉ dài
ra theo ống tre, đi đâu cũng bỏ vào gùi đeo trên lưng, nên xương gà
cũng mềm như sụn . Heo cũng được nuôi trong bội , con heo chỉ lớn
khoảng 3 kg là tối đa được gọi là « heo mọi » . Lúc làm món ăn họ chẻ
ống tre và làm thịt, thịt gà được bằm vụn, vo tròn rồi nấu, món hắn được
ăn hôm đó gọi là « canh thụt », món ăn này chắc đã bị mai một rồi, và
xoay quanh một chóe sành rượu, có các ống hút gọi là rượu cần. Loại rượu
này nước đầu còn nồng độ cao, cứ sau một vòng lại được đổ thêm nước vào
chóe, rượu nhạt lần.
Ngồi uống rượu cần với họ hắn học được một câu trong thổ ngữ đến
bay giờ vẫn nhớ là « hăn xế tầm bồ xào »; chữ « hăn » có nghĩa là đi như
« hăn chợ » là đi chợ « hăn rừng » là vào rừng « hăn xế » là về nhà ;
nguyên câu có nghĩa là « về nhà ôm vợ ngủ » vài tháng sau vợ vào nhà hộ
sinh .
Hắn đọc trong các báo và những bài viết bây giờ khác hẳn những gì hắn đã được sống vào năm 1970.
Còn ít chai mỗi lần đi du lịch mua kỷ niệmđặc sản của từng địa phương, hai vợ chồng cũng chỉ uống chút rượu vin đỏ khi ăn cơm chiều
Nhờ những người Thượng làm sạch cỏ sân trường, họ đồng ý là 500
đồng, nếu đưa tờ 500, họ ngơ ngác ngờ vực mình ăn gian, nhưng đưa 25 tờ
20 đồng họ hí hửng, tặng thêm chai rượu Rhum Hiệp Hòa ngày đó, họ mừng
lắm. Tiếc là hắn không tìm thấy câu ca nào hợp tình hợp cảnh để đưa vào .
Như vậy có phải như cụ Thượng Trứ nói « nghề chơi cũng lắm công phu » đúng không quý vị.