Bài này trích từ trang web của Daihocsuphamsaigon ở bên Pháp
https://www.daihocsuphamsaigon.org/index.php/van/95-vannguyenvansam/2780-butkyvehaivithay
Tiến sĩ Nguyễn văn Sâm từng giảng dạy ở ĐH Văn khoa Sài gòn , ĐH Vạn Hạnh Sài gòn, ĐH Cao đài Tây ninh..Hiện sinh sống ở California , Hoa kỳ và nghiên cứu, dịch sách chữ Nôm.
Bút ký về hai vị thầy của tôi
Gs Nghiêm Toản và Lm Thanh Lãng
Nguyễn Văn Sâm
Về Giáo sư Nghiêm Toản
1. Trong hai thập niển lớn mạnh của nền Đại Học Việt Nam ở Miền Nam, nói về mặt công trình khảo cứu, giáo sư các trường Đại học Văn khoa, Sư phạm Sài gòn và Huế đóng góp nhiều hơn cả. Muốn tìm hiểu học thuật Việt Nam thời này ta không thể bỏ qua các sách vở, trước tác của những giáo sư từng phục vụ tại đây. Thật vậy, các tên tuổi Nguyễn Sỹ Giác, Thẩm Quỳnh, Nguyễn Nam Châu, Nguyễn Văn Thích, Lê Văn Lý, Hoàng Sỹ Quý, Trần Trọng San, Lê Thanh Minh Châu, Thanh Lãng, Thích Quảng Liên, Trần Kinh Hòa, Bửu Cầm, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Khắc Kham, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Nghiêm Toản, Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đĩnh, Nguyễn Thế Anh, Bùi Xuân Bào, Lê Hữu Mục, Nguyễn Thiên Thụ, Huỳnh Minh Đức, Nguyễn Khuê, Đoàn Khoách… là những tên tuổi có giá trị về phong cách trong lĩnh vực giáo dục đào tạo lẫn giá trị về đóng góp tư tưởng để lại đó đây trong các bài viết và những công trình nghiên cứu có thế giá.
Sự khảo sát nghiêm túc về tác phẩm của những vị nầy là chuyện cần thiết để thấy rõ bộ mặt học thuật, văn hóa – và những nguồn gốc ảnh hưởng lên nó - của VNCH, một phần đất Việt Nam thật quan trọng thời nước nhà còn chia cắt.
Bài này chỉ là những nhận định sơ khởi, có tính chất như một bài bút ký, phần nhiều mang thái độ cảm tính về hai vị Giáo sư của Sài Gòn là Nghiêm Toản và Thanh Lãng, hai người thầy học của tôi, theo yêu cầu của chủ đề tờ tập san quý vị đang cầm trên tay (tờ Dòng Việt, xuất bản ở California, do GS Lê Văn nguyên Khoa Trưởng khoa Văn trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn chủ trương…)
2. Tôi học với thầy Nghiêm Toản môn Việt văn năm Đệ Nhị B(57-58) trường tư thục Văn Lang đường Đề Thám, buổi chiều. Thầy Toản dạy lớp nầy song song với thi sĩ Vũ Hoàng Chương chỉ thuần giảng Kiều. Những gì học được lúc đó, có lẽ vẫn còn nằm đâu đó trong số kiến thức tôi có cho tới bây giờ, nhưng biểu nói những gì mình học ở thầy thì thú thiệt là không thể nhớ để kể ra. Mấy ai làm được điều đó! Điều lớn nhứt tôi chịu ảnh hưởng từ thầy là quyết định sau nầy mình sẽ cố gắng để khi lớn lên có thể viết sách được về Văn chương Việt Nam. Thời gian nầy phần lớn học sinh đi thi Tú Tài theo học Toán, ban B hay Vạn vật ban A. Hai ban nầy thi dễ đậu hơn Văn Chương, Triết Học, ban C, nếu nắm vững Toán Lý Hóa hay Vạn Vật Lý Hóa. Mặt khác, theo các ban A, B chân trời mở rộng hơn khi vào Đại học (1). Tôi ở trong số đông đó. Cày cục với Toán và các môn Lý, Hóa cho tới một ngày tôi bùng vỡ ý thức về mình để thấy mình thích và muốn hòa điệu với những vần thơ Việt trong Đoạn Trường Tân Thanh, những câu ca dao tục ngữ, những phát biểu của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát về thái độ ở đời, của Trần Tế Xương về cuộc đời bất ưng ý, của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh về con đường cứu nước… qua sự cắt nghĩa của những vị thầy dạy Việt Văn của mình từ những năm Đệ Tứ, (thi sĩ Bàng Bá Lân), Đệ Nhị (2) mà thầy Nghiêm Toản là một…
Thầy Toản đến với học sinh chúng tôi bằng một phong cách từ tốn, khoan thai của nhà Nho cựu học. Lúc nào ông cũng nhẹ nhàng – nhẹ nhàng trong cử chỉ, trong từng lời giảng dạy, từng câu giải thích, trong lời nói chuyện bên ngoài giờ học với học trò. Tôi nhớ như in người thầy thấp thấp nhưng tròn trịa, mặt vuông, đầy đặn, nhiều tàn nhang của người lớn tuổi, một cái răng hàm trên, phía trước mọc xiên xiên, hé ló nửa mình ra khỏi hàng, nhưng trắng bóng và mạnh mẽ. Vào tới lớp, lúc ở Trung học hay sau này gặp lại thầy ở Đại Học Văn Khoa cũng vậy thôi, thầy ngồi xuống ghế, mở cặp lấy ra cái quạt giấy, quạt quạt nhẹ nhàng rồi mới bắt đầu giảng bài. “Tôi thích dùng quạt tay, quạt máy cung cấp cho chúng ta cái hư khí, không phải là cái gió thật. Quạt tay cho ta chân khí, cái gió thật, không phải do cơ khí tạo ra”. Thầy cắt nghĩa khi thấy ánh mắt của cô cậu học trò nào đó tỏ vẻ lạ lùng về cử chỉ của thầy. Nghe thì nghe vậy thôi. Cái chân khí mà thầy nói đến, chúng tôi thấy vẫn không bằng cái hư khí cả lớp cần có cho một gian phòng đầy người, nhất là buổi chiều oi ả của Miền Nam nóng bức. Điều nhỏ mọn đó có thể nhiều bạn học cũng thời với tôi đã quên, nhưng tôi vẫn còn nhớ. Mỗi người trong chúng ta bị ký ức mình gạn lọc những gì cần giữ hay bỏ đi tùy theo tính tình và sở thích của từng người. Biết sao!
3. Trong hai năm học với thầy ở Đại Học sau đó, năm Dự Bị Việt (1960 – 1961) và năm chứng chỉ Việt Hán (61 – 62), tôi học được cách chú thích cẩn thận từng điển tích, từng từ khó, từng tên nhân vật, tên người, tên đất. Thầy cẩn thận đối với vấn đề nầy. Thầy nói hiểu điển tích mà tác giả muốn dùng, hiểu nhân danh, địa danh của câu chuyện, nắm vững từ khó, từ cổ thì hiểu hết tác phẩm. Phần tư tưởng và thái độ của tác giả ta suy ra từ đó, không khó. Sinh viên học xong, ra trường, nếu giữ lại những ghi chú cẩn thận của bài học thì khi đi dạy trung học việc soạn bài đã đỡ được một phần lớn. Thật vậy, sau này, coi lại các công trình của thầy về mặt nầy như: Thơ văn Việt Nam từ đời Trần đến cuối đời Mạc (3), Quân Trung Đối (4), Tam Quốc (5), Đạo Đức Kinh, tôi thấy rằng đi vào đường tìm hiểu từng điển tích, từng chữ, từng câu, từng địa danh nhân danh, chưa ai làm được những gì hơn thầy Toản đã làm. Đây không phải là sự tầm chương trích cú lạc lối trong rừng rậm ngả rẽ như người xưa đã làm, đây là phản ảnh việc làm cẩn thận, kiên nhẫn và học rộng biết nhiều của người viết. Công việc nhìn qua thấy dễ dàng nhưng thiệt là khó khăn vì không được đưa ra những suy luận chủ quan, những lời dao to búa lớn, gây sự chú ý trong học giới nhưng thiệt tế thì không gì quan trọng, rỗng tuếch…
Trong phần nhận xét về “động tác” của truyện Quân Trung Đối, thầy Nghiêm Toản cho thấy kiến văn quảng bác và việc làm nghiêm chỉnh của ông. Ông sử dụng suy luận khi cần thiết để giải quyết những vấn đề sanh ra từ tác phẩm như tìm hiểu thời gian xảy ra câu chuyện, các nhân vật thiệt hay được tạo ra do ngòi bút của người sáng tác….
“Quân Trung Đối” là một cuốn tiểu thuyết thuộc loại Thông tục diễn nghĩa
như Thuyết Đường. La Thông Tảo Bắc… có lẽ có lam bản bằng chữ Hán, nhưng cho tới nay chưa thấy lưu hành ở Việt Nam. Đã là diễn nghĩa, tự nhiên cốt truyện thêu dệt rất nhiều; tuy có một vài nhân vật lịch sử nhưng hoạt động khác với những điều ghi chép trong tín sử rất xa, còn phần lớn đều do tác giả đặt bày, ngay những vai chính chưa hẵn đã là người có thiệt (tỷ dụ: La Thành, Đậu Tuyến Nương, Phàn Lê Huê, Tiết Đinh Sơn, La Côn, La Xán…). Dầu sao nếu ta căn cứ vào mấy điểm: Đậu Kiến Đức và La Nghệ đánh nhau năm 620 (tháng chín), Đậu Kiến Đức, Đơn Hùng Tín bị nhà Đường giết năm 621, và La Nghệ làm phản, bị giết năm 627, thì động tác ắt phải diễn tiến vào đầu thế kỷ VII , trong khoảng thời gian nhất định là năm sáu năm.” (6)
Chịu ảnh hưởng và cách viết của nhà nho, phần đánh giá về loại văn của Quân Trung Đối, ông viết:
“Cách hành văn già dặn, có khuôn phép, song hoàn toàn thuộc lối kể chuyện, thiếu hẵn những câu phân tích tâm lý sâu sắc hay những đoạn tả cảnh xứng với lời phê “trong thơ có vẽ’’ cho nên mặc dầu Đạm Trai đã đặt tác giả bên cạnh ông anh (7) mà quá khen với hai chữ “nan đệ”, ta cũng phải giữ thái độ khách quan mà nói: Quân Trung Đối xấp xỉ vào cỡ Nhị Độ Mai (😎.
Nhận xét nầy ngắn gọn nhưng là lời xác định chắc nịch về giá trị văn chương của tác phẩm. Đưa ra ý mình, muốn nói rằng mình không đồng ý với nhận xét quá khen của một nhà nho đi trước, Nghiêm Toản nói nhẹ nhàng, gián tiếp, thật ít có ngòi bút như vậy!
Tuy nhiên tôi rất tiếc trong khi giới thiệu tác phẩm Quân Trung Đối. Giáo sư Nghiêm Toản muốn cho công việc làm của mình thật khách quan, đã không sử dụng kiến thức uyên bác của mình để bày tỏ lập trường về trường hợp có thể gây ra tranh luận sau này, mặc dầu tranh luận về một vấn đề rất thích thú trong văn học. Khi ông giao điều có thể gây tranh luận lại cho độc giả, ta biết rằng ông không đồng ý với một kiến giải nào đó, nhưng mà người đi sau chúng ta sẽ thích thú biết bao nếu chính ông nói bằng những dẫn chứng và lý luận cụ thể. Chẳng hạn về trường hợp lý do sáng tác quyển Quân Trung Đối của Nguyễn Chu Kiều,
Nghiêm Toản giao trái banh lại cho chúng ta, ta cầm banh mà ngơ ngác không biết thảy về phía nào! Mấy ai trong số độc giả ít ỏi thời đó của Quân Trung Đối đọc kỹ bằng ông. Vậy mà sự cẩn thận và hòa nhã đã không cho phép ông nói rõ ý mình! Tiếc thay (9)!
“Ông bạn tôi mượn sách (10) có ý kiến rằng Nguyễn Chu Kiều viết Quân Trung Đối có dụng ý trái ngược với ông anh viết Đoạn Trường Tân Thanh. Nếu Nguyễn Du muốn gởi gắm nỗi lòng “bất đắc dĩ phải làm một tôi hai chúa” vào truyện Kiều, thì ở đây Nguyễn Chu Kiều, muốn mượn truyện La Thành, Đậu Tuyến Nương để gởi gắm tấc lòng ‘trung trinh trước sau như một’. Ý kiến ông bạn, xin nhường để độc giả xét lại xem.” (11).
Dầu sao đi nữa, các công trình nặng về giới thiệu và chú giải của Nghiêm Toản rất có giá trị, ngoài giá trị về lao tác cung cho học giới phương tiện để hiểu rõ hơn tác phẩm, còn có giá trị như mẫu mực của một công trình thâm cứu nghiêm túc.
Quyển sách mà người làm công tác văn học Việt nào cũng biết là quyển “Việt Nam văn học sử trích yếu (12). Đây là quyển Văn học sử viết sau quyển của Dương Quảng Hàm nên được những ưu điểm mà sách cụ Hàm không có: gọn gàng, hợp lý trong sự phân chia chương mục (13) và các thời kỳ văn học. Tác giả nói trước rằng khi viết sách này ông chọn con đường ngắn gọn, hy sinh tất cả những chi tiết có thể làm rối rắm người đọc khi phải đi sâu vào những ngõ ngách tiểu sử hay những vấn đề sanh ra từ tác phẩm. Mỗi cách viết, ngắn gọn hay chi tiết đều có ưu và khuyết điểm, đều có số độc giả riêng của mình. Không có sự đúng sai ở sự lựa chọn cách viết, chỉ có sự đúng sai về những gì được viết ra mà thôi. Quyển Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu không có sai lầm nào về mặt tài liệu, đó cũng là một lý do cho tới ngày nay quyển sách vẫn còn được ưa chuộng bởi người nghiên cứu văn học Việt Nam.
Điều quan trọng và đáng nêu ra ở đây là tác giả có một quan điểm văn học rõ ràng khi viết quyển sách này. Hãy đọc lời nói đầu… - nên nhớ sách viết và in năm 1949, những năm đầu của cuộc chiến tranh giải phóng Việt Nam, những
năm bắt đầu sự thành công của họ Mao ở phía Bắc, những năm có những nghị quyết căn bản về Đề Cương Văn Hóa của Cộng Sản Việt Nam.
“Sau hết, trong quyển Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu nầy, lập trường của chúng tôi rất rõ ràng: Văn học là phản ảnh của xã hội, tự do dân chủ phát sinh và phải luôn luôn quay về dân chúng mới đủ khả năng trưởng thành; văn học Việt Nam theo hai động lực phát triển nhịp nhàng; tranh đấu và dân chúng hóa. Chúng tôi đã tự thú nhận những khuyết điểm, lại nói rõ lập trường chúng tôi làm cơ sở lập luận, nhưng công việc chứng minh không chắc thành tựu hẵn; chúng tôi chỉ là người ngồi giữa đường đan sọt, hy vọng duy nhất là được bàng nhân nghịch mắt chỉ cho những chỗ sai lầm”.
Viết văn học sử mà dùng một lập trường cơ bản làm mối để giải thích sự kiện văn học hay giải thích sự phát sinh một trào lưu tư tưởng của một thời kỳ hay hệ thống tư tưởng của một tác giả là điều rất tốt, đáng hoan nghinh và noi theo. Người đọc dễ dàng thấy trong muôn ngàn ngõ ngách của các vấn đề văn học một nước hay một thời kỳ đều không ngoài những điểm cốt yếu mà người viết nắm lấy làm quan điểm của mình (14). Quan điểm tranh đấu và dân chúng hóa là quan điểm tiến bộ thời đó và cho cả ngày nay nữa nếu ta sử dụng đúng cách và không đi lạc lối vô con đường phục vụ cho nhóm của mình, dầu là nhóm đươung nắm chánh quyền. GS Nghiêm Toản can đảm và thành thật khi đưa ra lập trường của mình, nhưng viết theo và giải thích bằng lập trường đó là cả một vấn đề. Suốt trong quyển sách ta không thấy các điểm cơ bản là tranh đấu và dân chúng hóa được theo sát. Tôi không thấy những giải thích bằng sự đấu tranh và vai trò của quần chúng trong toàn bộ tác phẩm. Phần ca dao, tục ngữ, truyện cổ, phần lý do sáng tác chữ Nôm, phần thắng thế của chữ quốc ngữ…, sự giải thích bằng quan điểm trên sẽ mang được rất nhiều tính cách thuyết phục, nhưng tiếc thay giáo sư Nghiêm Toản ở những chỗ này đã không đưa ra lý giải.
Trong phần khảo sát về thơ ca thời Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí, ông có nói xa xôi:
“Thơ ca trong hồi này thiệt phản ảnh tâm hồn dân tộc đang sống trong vòng
áp bức cho nên có ba đặc tánh:
1. vẫn giữ khuôn sáo cũ (dù cổ phong hay thơ luật);
2. là sản phẩm của bọn tư sản trí thức, lại dành riêng cho bọn họ ngâm đọc, vì họ sống đầy đủ về vật chất nhưng tâm hồn trống rỗng;
3. ủy mị, lãng mạn, chuyên tả những nỗi buồn vơ vẩn, hay những sự chán nản trước đời sống không lý tưởng, không mảy may hy vọng vào ngày mai (15).”
Chắc chắn không các đặc tánh trên sở dĩ hiện hữu là vì dân tộc đang bị áp bức như tác giả quả quyết? Tôi e rằng nhiều người không đồng ý với lời quyết đoán đó.
Cái khổ của sự viết với một lập trường có sẵn làm cương chỉ là ở đó! Rất nhiều chỗ sự giải thích của mình không thuyết phục được người đọc, tranh luận dễ dàng xảy ra, đó là chưa kể những cương chỉ này một đảng phái nào từng đem ra dùng nhiều lần thì người viết rất dễ dàng bị coi như là một thành phần của đảng phái chánh trị đó.
Bài viết giá trị, đáng đọc khi tìm hiểu về Nghiêm Toản là bài ở cuối sách: “Việc xây dựng một nền quốc học và văn hóa Việt Nam”. Trong bài nầy ông đã dùng giọng văn tranh biện, sôi nổi cần thiết để bác bỏ ý kiến khác mình và đưa ra ý kiến riêng về về nền quốc học. Ông cho rằng phục cổ là “khờ khạo”, chiết trung là “vá víu, chắp nhặt” (16). Một nền quốc học mới phải khởi sự từ những cái mới đương đại, bỏ hết những cái cũ.
Thái độ dứt khoát nầy rất cần thiết. Tôi chỉ dám nói cần thiết thôi, chưa dám nói đúng sai. Càng không dám nói đúng sai khi đi vào chi tiết những gì cần phải có để làm nền tảng mới cho một nền quốc học mới, nguyên chuyện có cần phải đặt sẵn cái nền móng cho một nền quốc học hay không đã là vấn đề sống chết của dân tộc không phải ai cũng có thể bàn được.
Tôi từng học với thầy Nghiêm Toản trong ba năm, tôi ngồi đây viết bài đưa ra ý kiến mình về công trình của thầy, vẫn cảm thấy có điều gì bất ổn. Càng bất ổn hơn khi viết vội và không đủ điều kiện đọc lại hết những gì thầy mình đã viết ra. Chỉ có một điều làm tôi tạm vừa ý là đã nhìn lại công trình của thầy với cái nhìn phải xuất phát từ tấm lòng yêu mến sự khách quan và thiết tha với văn chương chữ nghĩa.
Tôi từng làm việc chung trường với thầy 8 năm, tôi biết rõ phong cách của thầy. Đâu đó trong báo chí thời xa xưa tôi đọc được rằng thầy có mặt trong nhóm VNQDĐ của lãnh tụ Nguyễn Thái Học và biến cố 1930, thầy đã từng bị tù Côn Đảo vì lòng yêu nước, không chịu được sự áp bức của ngoại bang. Tôi tâm phục và kính nễ những người từng có những hành vi dấn thân chánh trị / cách mạng trong thời thanh niên. Tôi luôn luôn nhìn thầy như một người đã trả xong món nợ tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia; khi dạy học, khi viết sách là thầy trả thêm món nợ văn hóa cho dân tộc. Những món nợ nầy chính từng cá nhân thấy rằng mình phải trả, không ai ngoài chúng ta bắt buộc được. Bắt buộc là áp đặt, là sai trái.
Năm 1977, thầy xin nghỉ khỏi ngôi trường mà mình có mặt hai chục năm cũng là vì muốn muốn tránh những áp đặt sai trái đó. Tóm lại, dưới mắt tôi, giáo sư Nghiêm Toản là một trong số những nhà nho cuối mùa, yêu nước. Khi thất bại trong tiến trình đấu tranh chánh trị, trở về vai trò một học giả, ở mặt nầy các tác phẩm của ông đã thành công trong chừng mực nào đó. Tên tuổi của nhà Nho Nghiêm Toản ít được biết đến ngoài giới nghiên cứu văn học Việt Nam vì những đề tài viết lách của ông cao sâu quá, chuyên môn quá, không va chạm đến những vấn đề gây ra do hoàn cảnh thiệt tế của thời đại để có ảnh hưởng trong quần chúng thời tác phẩm của ông xuất hiện hay sau đó…
Về Giáo sư Thanh Lãng
Trung Tâm Huấn Huyện Quang Trung 1968, vườn Tao Ngộ, buổi trưa. Trời mưa tầm tả từ sáng sớm tới giờ. Người đi thăm nuôi và tân binh đều ướt loi ngoi. Tân binh còn tìm được chút ít chỗ trú ẩn dưới tàng những cây bã đậu ít lá đầy gai nơi thân, nơi gốc bã đậu. người đi thăm nuôi thời đành chịu, bốn bề là
đồng ruộng mênh mông, trơ trọi. Tôi mặc kệ cơn mưa, đứng cạnh rào kẽm gai, rảo mắt nhìn quanh mong ngóng người thân, luôn tiện quan sát hoạt cảnh. Tôi đang buồn nẫu ruột mà mưa lại lê thê như không bao giờ dứt. Mẹ tôi mới qua đời chừng một tháng, tôi vừa sạt nghiệp nợ nần vì tái ứng cử lại đơn vị nhưng bị rớt đài vì nhiều lý do trong đó có lý do chánh trị là chuyệtn bẩn thỉu đáng ghê tỡm. Từng sinh hoạt chánh trị trên bình diện quốc gia, giờ đứng bên hàng rào kẽm gai trong vai trò Tân Binh Dự Bị Sĩ Quan, nghe từng hạt mưa nhỏ rớt nhẹ trên đầu, len lỏi lên cổ, trong một vòng rào của trường huấn huyện tân binh quân dịch, với bộ đồ binh nhì dơ dáy mặc cả tuần nay, tôi thấy lòng trống trãi một cách kỳ lạ về sự thay đổi của cuộc đời. Một người cô tôi kêu tên tôi từ xa. Trước mặt bà có nhiều thân nhân của tân binh với những cồng kềnh của giỏ thức ăn khiến bà khó thể tới gần. Tôi nhìn bà mà tội nghiệp. Những giọt mưa làm bà khổ sở hơn so với tuổi đời. Cô tôi, cuối cùng cũng đến được hàng rào khi tôi men tới một chỗ ít người, trao cho tôi một bức thơ viết tay của Linh Mục Thanh Lãng, người thầy đỡ đầu của tôi ở ban Cao Học bốn năm nay. Bức thơ bị nước, ướt, khi mở ra thì bị rách nhiều chỗ theo lằn xếp. Đại ý cha Lãng hỏi sao hơn hai năm rồi tôi bỏ ngang công việc hoàn tất luận văn Cao Học, không liên lạc, cũng không cho địa chỉ, giờ thấy địa chỉ của tôi nhân lời phân ưu mẹ tôi mất, nên mới liên lạc lại. “Toa có thể về trường mình làm phụ khảo cho ban Việt văn vì không ai xong hay gần xong luận văn như toa. Nếu muốn thì xúc tiến việc giấy tờ… Trong khi đó toa cố gắng viết cho xong, càng sớm càng tốt.” Tôi mừng rỡ, lật mặt sau bức thơ ra viết vài dòng cám ơn và nói mình sẽ lo việc giấy tờ khi có thể…
Cuộc đời tôi thay đổi và dính luôn với văn chương Việt Nam kể từ bức thơ đó của cha Thanh Lãng. Chuyện đã hơn 30 năm qua, Giờ nhìn di ảnh thầy trên tường, cạnh ảnh cha mẹ tôi, tôi vẫn nhớ cảnh tượng hôm ấy, nhớ luôn nụ cười của thầy khi tôi mặc đồ tân binh thùng thình, với đôi giày trận nặng nề đến Trụ Sở Địa Phận Thanh Hóa trong một con đường nhỏ trên đường Trương Minh Giảng thăm thầy sau đó. “Toa đi đâu mà đi luôn mấy năm không gặp, bây giờ trở về đây trong bộ đồ này!” Thầy trò cùng cười. Tuổi trẻ ngày nay có nhiều cách để làm cho đất nước nầy khá hơn. Quan trọng là nhìn đúng đường, và đi bằng tất cả tấm lòng chân thật của mình. Cha bóng gió: “Có nhiều đường mà cũng có nhiều bảng cấm không cho vào đó khiến người ra cực chẳng đã phải rẽ sang đường mình không thích. Tạm thời toa về giúp ban Việt của moa vậy. Mọi chuyện khác tính sau”.
Tôi thật sự bước vào và để hết tâm trí trong việc tìm hiểu cũng như sống với văn chương Việt kể từ đó. Công việc, sở thích và những thách đố. Bao năm trời làm việc với cha, tôi thấy cha tranh đấu không mệt mỏi, từ những định chế mới của Đại Học đến những điều tự do của dân chúng và báo chí. Cha tranh đấu với tấm lòng hồn nhiên vì mục tiêu cần đạt chớ không phải vì thù hằn người bị cha chỉ trích, càng không phải vì những danh tiếng nhứt thời. Có thể những hoạt động của cha gián tiếp góp phần cho một vài xáo trộn bất lợi cho VNCH, nhưng ít nhứt cha đã nói lên tiếng nói lương tâm con người trong hoàn cảnh mà con buôn chánh trị đầy rẫy khắp nơi.
Cha viết bài về văn học, chánh trị, cha lo chuyện Văn Bút, cha diễn thuyết, cha nâng đỡ những bước tiến của các anh em trẻ khi mới vào trường. Cha hồn nhiên và vui tính. Cha dùng những ngôn từ bình nhựt, không kiêu sa, không làm dáng trú ẩn trong những câu nói cao kỳ, xa cách cuộc đời với những con người thật lăn lộn kiếm sống từng bữa.... Cha thơm phức dầu thơm và không có áo chùng dài, cha hối thúc tôi hoàn tất luận văn như lời tôi đã hứa, cha với tủ sách gần như đầy đủ nhứt về văn học Việt Nam mà chúng tôi có thể mượn được không khó khăn lắm.
Và rồi tháng 4 năm đó…Những người mới đến chỉ chịu gọi cha bằng anh. Tiếng thầy không được sử dụng, tiếng cha cũng vắng mặt, tiếng giáo sư cũng không được dùng. Người mới có những cấm kỵ phải theo, mang một lập trường rõ ràng khi sử dụng nhân danh đại danh từ, như anh, như thằng, như bọn... Đó là chưa kể khi những đại danh từ nầy được thêm các tĩnh từ, trạng từ chết người kèm thao... Nhưng chúng tôi, những người cũ, “lưu dung” thì vẫn cứ cha, thầy tùy theo vị trí và ý thích cùng sự quen miệng của từng người.
Rồi cha được cám ơn để về vườn, từ giã ngôi trường vì lý do không thể để tôn giáo trong Đại Học, các Linh Mục và Thượng Tọa từng dạy ở đây phải ra đi. Tôi thiệt tình không hiểu chữ tôn giáo được hiểu theo nghĩa nào. Con người tôn giáo của cha, vâng, nhưng có bao giờ cha đả động đến tôn giáo ở trường đâu. Cha đến với ngôi trường như một người văn chương, một chuyên viên về văn học. Cha văn chương văn học hơn chán vạn người khác không phải là linh mục như cha. Không ai học với cha mà bị ảnh hưởng về tôn giáo của cha cả. Cha có giảng dạy tôn giáo đâu! Nhưng mà thôi, lý do chỉ là cái cớ để đưa ra cho có, cái cớ không bao giờ thật. Cái cớ đưa ra cho có của kẻ mạnh. Ai dám phản đối lúc đó khi guồng máy sẵn sàng san bằng!
Người đã dùng hết vốn liếng của tuổi đời đầu tư về giáo dục về văn học như cha mà không được dạy, không được viết hẵn bức xúc lắm. Cha chuyển ngành sang địa hạt ngôn ngữ chỉ là có thể được đọc, có thể còn viết, cho hết thì giờ, cho cảm thấy rằng đời mình cũng không đến nỗi bỏ đi. Cha trao đổi thêm vốn liếng chữ Nôm, cộng tác với Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Thành Phố để thiệt hiện những công trình phiên âm các tác phẩm nôm về đạo Thiên Chúa của giáo sĩ Majorica (17). Quyển tự điển Annam-Lusitan-Latinh (Việt Bồ La) cùng dịch chung với các ông Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính (18) là công trình giới thiệu một cách hữu hiệu nhứt quyển tự điển có giá trị lịch sử của cố đạo A. De Rhodes. Cho đến ngày nay quyển này vẫn là sách gối đầu giường cho những ai muốn biết về ngôn ngữ Việt thế kỷ 17, với sự dịch phần tiếng La tinh ra tiếng Việt, quyển nầy càng có lợi ích thiết thiệt hơn. Công trình viết lách của Cha Lãng quá nhiều. Thư mục đồ sộ của cha để lại cần phải có thì giờ đọc đi đọc lại nhiều lần và phân tích tỉ mỉ mới thấy hết giá trị công trình. Tôi không có ý định đó khi viết bài nầy. Tôi chỉ muốn ghi lại vài nét đại cương về người thầy của mình, một người thầy đã thay đổi cách suy nghĩ và số phận của tôi. Con đường viết lách của tôi hôm nay cũng là thể hiện phần nào sự bắt chước con đường của thầy mình. Tôi cám ơn Trời Phật đã cho mình viết được, đăng được. Và tôi ứa nước mắt khi đọc lời nói của thầy nghe như xót xa cho thân phận của một người bị bẻ bút: “Tôi khi ở Pháp chuyên nghiên cứu văn học Việt Nam, về
nước tôi dồn tất cả công sức vào công việc viết lách và đào tạo sinh viên văn khoa. Nhưng 14 năm qua tôi không có điều kiện làm văn học. Nay quý anh gọi tôi ra làm văn học, chẳng khác nào đã chôn dưới đất lại được moi lên, các anh cần dùng về công việc gì tôi xin tận lực”(19).
Mõi mòn chờ đợi, chìm ngập trong nỗi buồn thất vọng (20) cha mất mấy tháng sau ngày tuyên bố câu nói lịch sử đầy nước mắt trên kia. Sau đó công trình của cha được "người ta" in lại ở bên nhà cũng như ở bên nầy để trục lợi trên công trình của người đã thất vọng vì hoàn cảnh cho đến không còn thiết sống.
Than ôi!
Nguyễn Văn Sâm
Texas, Tết Kỷ Mão
(In lại bài đã đăng trong tạp chí Dòng Việt, CA năm Kỷ Mão).
Chú thích:
(1). Đó là nói về học sinh theo chương trình Việt từ nhỏ, học sinh theo chương trình Pháp từ nhỏ thì thi Tú Tài Việt ban C lại dễ đậu hơn vì có lợi thế sinh ngữ. Vào những năm cuối cùng của thế hệ chương trình Pháp. Đai Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa. Các ban Triết, Pháp văn, Anh văn có nguồn gốc sinh viên từ chương trình Pháp nhiều hơn từ chương trình Việt.
(2). Xin mượn bài này để nói một chút ít riêng tư: Tôi lúc còn nhỏ, ở Trung Học, hay học chạy trường, đổi từ trường nầy sang trường kia nhiều lần trong năm vì thích hay không thích một thầy nào đó, nên may mắn được nghe lời giảng của nhiều vị giáo sư vốn là những nhà văn, nhà thơ tên tuổi như Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân, Bùi Xuân Uyên, Lữ Hồ, Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Duy Diễn, Vũ Ký… xin có lời cám ơn các thầy, người còn cũng như người đã khuất.
(3). Nhà Xuất bản Sông Nhị 1951, Hoàng Xuân Hãn chọn, phiên âm và giới thiệu, Nghiêm Toản chú thích từ ngữ. Quyển nầy rất có giá trị về mặt tài liệu khả tín, công bố lần đầu tiên và chú thích chính xác. Đã nửa thế kỷ trôi qua, về mặt nầy, chưa có quyển nào vượt hơn. Bộ Thơ Văn rất đồ sộ về đời Lý Trần do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, nhà xuất
bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1988 có giá trị về phần tác phẩm chữ Hán, nhưng phần tác phẩm Nôm, chưa có những khám phá hay công trình gì độc đáo khả dĩ vượt qua mặt quyển Thơ Văn Việt Nam từ đời Trần đến cuối đời Mạc của thầy Nghiêm Toản.
(4). Tác phẩm Nôm ít người biết đến, tương truyền là của Nguyễn Chu Kiều, em ruột Nguyễn Du. Cụ phó bản Võ Hoành phiên âm, Giáo sư Nghiêm Toản hiệu đính và chú thích, đăng lần đầu trong nguyệt san Luận Đàm 1961- 1962, mới in lại ở Pháp năm vừa rồi do sự xúc tiến của Giáo sư Võ Thu Tịnh, thứ nam của cụ Võ Hoành.
(5). Tam quốc: Mới dịch và in được một phần thôi. Phụ dịch với Giáo sư Langlet, Nghiêm Toản chú trọng nhiều về nhân danh và địa danh. Langlet chú trọng đến mặt sử liệu và sự kiện. Đạo Đức Kinh: chú trọng nhiều đến sự chấm câu. Nghiêm Toản nhiều chỗ cho thấy 2, 3 cách ngắt câu trong văn bản. Từ đây có nhiều cách hiểu khác nhau về tác phẩm lừng danh của Lão Tử. Cả hai quyển này hiện có trong thư viện Đại Học Washington State ở Seattle.
(6). Luận Đàm Bộ II, số 9, tháng 9 -1962, trang 80 tức 1156.
(7) Giáo Sư Nghiêm Toản muốn nhắc đến Nguyễn Du.
(8 Luận Đàm Bộ II số 9, tháng 9 -1962, trang 81 tức 1157.
(9. Cũng bằng cách vậy G.S. Nghiêm Toản chú giải Đạo Đức Kinh. Ông cho thấy có nhiều cách hiểu, nhưng ông không bao giờ cho biết cách hiểu nào là đúng nhứt hay cách hiểu mà ông lựa chọn.
(10). Tức Giáo Sư Võ Thu Tịnh, hiện đang cư ngụ tại Paris, người thường viết bài/sách giới thiệu văn hóa Việt Nam với người đọc tiếng Pháp.
(11). Luận Đàm Bộ II, số 9, tháng 9 – 1962, trang 81 tức 1157.
(12). In lần đầu tiên năm 1949, nhà Xuất bản Vĩnh Bảo, Saigon. Sống Mới in lại tại Hoa Kỳ, độ mười năm trước đây. Cho tới ngày nay, bộ sách này vẫn còn có giá trị như một quyển tóm lược những kiến văn cơ bản cần phải có về văn học Việt Nam, cho người đọc một cái nhìn bao quát về sự tiến triển của con đường văn học nước nhà.
(13). Chương mục quyển Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm lộn xộn, bề bộn không phải lỗi của người viết, mà là vì người viết phải viết theo đúng chương trình quốc văn thời đó, đề cập hết những gì do chương trình đưa ra và theo thứ tự của chương trình.
(14). Những trường hợp Kinh Thi của Trương Tửu, Văn Học Khái Luận của Đặng Thai Mai là trường hợp đầu tiên. Sau này mới có bộ Văn Học Việt Nam của nhóm Văn Tân, cuốn Cuộc Tiến hóa của Văn học Việt Nam của Kiều Thanh Quế có tựa đề Tiến hóa nhưng
không cho thấy được sự tiến hóa và cũng thiếu giải thích động lực của sự tiến hóa. (15). Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu, trang 151.
(16). Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu, trang 189.
(17). Nguyên bản các sách Nôm này hiện chứa tại Thư Viện Quốc Gia Pháp. Các bản phiên âm nghe rằng đã xong nhiều nhưng cho tới ngày nay vẫn chưa được công bố.
(18). Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Sàigòn, 1991. Bản in có giá trị ở chỗ đã cho in lại nguyên văn ấn bản lần đầu ở Roma năm 1651 và bản dịch phần tiếng Latinh của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính.
(19). Trích lời nói đầu của G.S. Hoàng Như Mai, viết cho “13 năm tranh luận Văn Học”, nhà xuất bản Sàigòn, 1995. Bản in ở Mỹ không ghi năm in và nhà xuất bản.
(20). Giáo Sư Nguyễn Văn Trung nói với tôi rằng cha Thanh Lãng buồn chán đến nỗi bỏ hết sách vở, kêu ve chai bán kí lô như là giấy vụn không có giá trị. Cha cũng không trả lời thư từ bạn bè và môn đệ trong và ngoài nước gởi đến.
https://www.facebook.com/sam.nguyen.7505468