Hình bóng quê nhà
Ò ó ò..o…o…o!
Sau khi
thăm viếng nghĩa trang, tôi về lại nhà và đánh 1 vòng khu đất của gia đình. Tôi
bắt đầu đi từ đầu ngõ dưới hàng tầm vong cho đến nơi tận hàng rào sau nhà anh thứ
6. Mọi cảnh đều quá xa lạ! Tôi nhớ lại thời thơ ấu. Đứng trước hiên nhà
chú út, tôi hồi tưởng lại nơi đây là ngôi nhà của nội, ngôi nhà vách gỗ mái
ngói âm dương, đây là thửa ruộng mà tôi thường câu ếch sau cơn mưa, kia là vườn
trầu cau mà mỗi ngày đi học về tôi có nhiệm vụ phải xách nước tưới. Nhiều hôm
mê chơi hay lười biếng tưới không đủ nước bị mẹ bắt được, thế là 1 phen bị roi
mây quất đít. Tuy nhiên chứng nào tật nấy, tánh ham chơi của trẻ con cũng không
thể nào bỏ được. Thời đó chưa có máy bơm nước nhưng các anh tôi cũng nghĩ ra
phương tiện để không phí sức khi kéo nước. Anh tôi tạo ra cây cần vọt để kéo
nước. Cần vọt là hai cây tre lớn bằng bắp chân đóng hay buộc dính chắc
vào nhau bằng những thanh ngang coi giống như một cái thang. Chân cái thang đó
được chôn đứng cách giếng độ hai ba thước. Trên đầu có một cốt tròn xỏ qua hai
thân tre. Bắt dính chắc trên cái cốt đó là một thân tre dài, đầu to là đầu nặng
nằm đụng đất, đầu nhỏ chỉ lên trời coi giống như một đòn bẩy hay một cái đu
nhún lên hạ xuống của trẻ con. Đó là cái cần. Trên đầu cần là một cây sào bằng
tầm vông dài xuống gần miệng giếng, đầu dưới của sào có cái móc để móc cái gàu.
Muốn lấy nước, người ta kéo cây sào thòng gàu xuống giếng đợi gàu đầy nước là
kéo gàu lên, cây cần làm đòn bẩy giúp cho người kéo nước không phải phí sức.
Ngày
nay nói đến cái cần vọt nhiều trẻ em ở quê tôi cũng không hình dung được, tất
cả đều thay bằng máy bơm nước. Nội tôi rất nghiêm khắc với con cháu luôn dùng
nguyên tắc “ thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi!” Tháng 8 năm 1972
khi tôi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài gòn (ĐHSPSG), tôi chọn về Trường Trung
học công lập Đất Đỏ, tỉnh Phước tuy, nơi vừa trải qua mùa hè đỏ lửa, tất cả đều
đổ nát. Tôi không nghe lời nội vì lúc ấy tôi có nhiều điều kiện để dạy những
trường nơi thành phố lớn, hay những nơi không có dấu ấn chiến tranh. Dượng tôi
là nhân viên cao cấp bộ giáo dục, chú tôi là Tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Bình, anh
tôi cũng là sĩ quan cao cấp v..v.. Nói chung, tôi có nhiều cơ hội để trở thành
một thứ công tử bột, nhưng không hiểu sao tôi không quan tâm những ưu đãi ấy.
Cho nên dù bà nội tôi có giận, bà út tôi có từ, ba tôi có can ngăn, tôi cũng
nhất quyết đến miền quê hẻo lánh. Lúc ấy tôi không nghỉ đến những nguy
hiểm tôi thể phải gánh lấy, tôi chỉ biết vùng quê Đất Đỏ cũng giống như quê
tôi, nóng bỏng không khí chiến tranh, và học sinh nơi đó cần giúp đỡ. Hôm nay
ngồi viết những dòng chữ này tôi vẫn không ân hận về sự chọn lựa của mình.
Những
cây mít, cây xoài, cây bưởi, vườn tiêu, vuờn trầu, vườn trúc cũng theo nội và
cha mẹ tôi tàn lụn.
Trầu |
Cau |
Tiêu |
Nghề truyền thống quê tôi là chế tạo sản phẩm bằng trúc, dùng trúc đan rổ, thúng hay giỏ mây cũng dần mai một.
Cây trúc đã cắt Nan chẻ ra từ trúc để đan
Ruộng vườn thì thu hẹp và được thay thế bằng những khu công nghệ thu hút và tạo công ăn việc làm cho dân chúng trong làng. Chú út nói: bây giờ tìm công nhân làm nông rất khó, tuổi trẻ ngày nay chỉ muốn vào làm công nhân xí nghiệp, có lương căn bản, không phải dãi nắng dầm sương như thế hệ chúng tôi. Cuộc sống bây giờ dù ở thôn quê chẳng thua kém gì ở thành thị: Internet, tivi, computer, digital camera, cell phone, DVD, tủ lạnh, máy giặt, máy tắm nước nóng, kể cả máy lạnh không còn là thứ hàng xa xỉ mà là vật dụng bình thường phục vụ cho nhu cầu gia đình.Tôi rất vui và yên tâm vì các cháu tôi đều có công việc làm ổn định, đa số lại theo nghề giáo của “chú út” và sống tạm vững.
Bánh canh và bánh tráng phơi sương cuốn thịt luộc là món ăn đặc sản nổi tiếng của quê tôi. Nay ngồi thưởng thức mà nhớ về những ngày ấu thơ. Ngày ấy với chúng tôi đây là món ăn xa xỉ nhưng hiện nay quán đặc sản phục vụ cho dân địa phương và khách du lịch mỗi ngày.
Sân vận động ngày xưa nay biến thành chợ Trảng Bàng, to lớn và khang trang , phục vụ nhu cầu dân chúng. Cháu tôi chở tôi trên chiếc xe gắn máy dạo từ thị trấn cho đến thôn làng để thăm bà con cô bác và cũng để tôi thấy những hình ảnh vùng quê trong thời chiến xa xưa nay dần biến mất
Điều đầu tiên tôi ngạc nhiên là quán: quán ăn, quán café, quán nhậu. Từ hang cùn ngõ hẻm, những vĩa hè cho đến các cánh đồng xa xôi, đâu đâu cũng có quán. Sáng quán, trưa quán, chiều quán, t thậm chí nửa đêm cũng quán. Hầu như những người ở đây giải quyết mọi việc đều ở quán. Tôi thấy rằng những thời gian đáng lý mọi người phải làm việc trong văn phòng hay cơ xưởng hoặc ngoài đồng ruộng nhưng quán vẫn đông, nhất là quán café. Tôi nhận ra được không ít nhân viên hành chánh vẫn ngồi quán trong giờ làm việc. Những điều này rất khác lạ với nơi tôi đang sống nhưng ai cũng nói “giải quyết công việc ở quán hiệu quả và nhanh chóng hơn; không nơi nào dễ dàng hơn bàn nhậu hay quán café, muốn gì cũng được!” Trẻ con ở đây bây giờ tụm 3 tụm 7 đánh bài hay vào quán internet chơi game, chúng không còn biết những trò chơi thú vị đậm nét dân gian của chúng tôi ngày trước như bắn đạn, đánh gồng, đá cá lia thia , đá dế, thả diều, nuôi chim v.v... Ngày xưa, sau vài cơn mưa thì bọn tôi ra ruộng vớt cá lia thia về đá, mùa hè thì tìm dế, dế mà nằm trong hang rắn được xem như vô địch. Có những hôm đánh trỏng , gồng rơi xuống u đầu. Những buổi chơi ổ quạ thì thế nào chân cũng bầm vập. Đánh quạ là trò chơi của trẻ con miền quê . Thường có 4 người, vẽ 1 vòng tròn khoảng 2 mét và mỗi người dùi 1 cái lổ vừa cái lon sửa bò đập dẹp (gọi là quạ). Mỗi người có 1 cây tầm vong khoảng 1 mét để làm vũ khí. Khi bắt thăm ai thua thì làm người lùa quạ. Số người còn lại thì canh giữ cái lổ của mình không cho quạ vào. Khi quạ bắt đầu lùa vào lổ thì người bảo vệ đánh quạ ra, có khi hụt, đánh vào chân người lùa quạ . Ai cố tình đánh vào chân người lùa quạ sẽ bị đuổi ra cuộc chơi và từ đó không ai cho gia nhập cuộc chơi nữa. Ai bảo vệ kém để quạ vào lổ của mình thì ngườì đó ra thế chổ người lùa quạ. Cuộc chơi kéo dài cho đến khi chán hay bị cha mẹ gọi về nhà. Những lúc bị thương tích phải len lén vào nhà . Nếu nội hay má tôi biết được thì thêm ốm đòn.
Thời thơ ấu của tôi quá giản dị và êm đềm!Các em học sinh Đất Đỏ đưa tôi đến Mộc Bài ở Gò Dầu, gần cửa khẩu nối liền Campuchia. Ở đây có khu siêu thị bán các loại hàng hóa nhập từ ngoại quốc, được miễn thuế và tổ chức như các siêu thị ở Mỹ. Khi xe vừa đến bãi đậu, tôi được mời chào vào casino bên kia biên giới thuộc Campuchia. Những tay cò mồi môi giới cho các casino hoạt động công khai, không sợ pháp luật. Nay tôi mới hiểu vì sao có những gia đình tan vở, tán gia bại sản khi họ chỉ cần 1 lần thử lửa chốn Casino.
Tôi cũng không quên dừng bước nơi Tha la, một vùng công giáo ở xã An hòa, quận Trảng bàng mà nhà thơ Vũ Anh Khanh đã mô tả vào năm 1950:
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh…
Trên đường đi Đức Hòa để thăm người bạn năm xưa và gia đình Cô tư; tôi dừng lại trước những mẫu ruộng còn sót lại trong gia đình. Có lẻ nơi này không hấp dẫn các nhà đầu tư nên mảnh ruộng kia còn tồn tại với thiên nnhiên.
Đây là lần đầu tiên tôi đi lên núi. Tôi không phải lội bộ và leo theo sườn núi mà đi bằng cáp treo. Cháu tôi kể cáp treo này là cáp đầu tiên của nước nhưng nay thì lạc hậu. Ngồi trên cáp nhìn xuống những cánh đồng bất tận, những ngôi chùa được trùng tu, không còn gì dấu ấn của chiến tranh khi tôi còn ở nơi này.
Nơi đây tôi đã gặp lại các anh cùng tôi tham gia phong trào thiện nguyện Nghĩa sinh . Chú Nguyễn Vạn Thắng; cựu sinh viên ĐHSPSG, ban Lý Hoá năm 69-72; nghe tin tôi về quê cũng vội vã từ Sài gòn lên Tây ninh để hội ngộ. Không có từ ngữ nào diễn tả chính xác được những tình cảm mọi người dành cho tôi.
Tôi về đây sau 32 năm xa cách, cảm giác buồn vui lẫn lộn. Buồn vì kẻ còn người mất, có những người tôi muốn gặp nay chỉ là tấm ảnh vô tri. Vui khi thấy các anh em họ đều thành công, có địa vị trong xã hội. Các cháu tôi không quá vất vả như cha ông ngày xưa phải dãi nắng dầm mưa, đầu tắt mặt tối để mưu sinh. Tôi thấy bằng chính con mắt mình cuộc sống người dân nơi này và những khó khăn mà mọi người phải đối phó. Các cháu tôi cũng như những đồng nghiệp của các cháu có đồng lương nhà giáo quá khiêm tốn. Tôi không biết họ phải thu xếp thế nào để cuộc sống được ổn định mà an tâm phụng sự nghề nghiệp. Các cháu tôi tường thuật “ muốn sinh tồn trong xã hội này, ai ai cũng phải có nghề tay trái”. Nếu có điều kiện thì dạy thêm, còn nếu như công tác những nơi quá khó khăn không thể dạy thêm thì chăn nuôi hay nhận hàng về gia công ban đêm. Có thế thì thu nhập tương đối tạm đủ để lo cho con ăn học.
Tôi không có nhiều thời gian để đi khắp hang cùng ngõ hẻm hay thăm hỏi tất cả họ hàng, bè bạn nhưng tôi cũng biết và hình dung cuộc sống quê nhà. Tôi tự nhủ lòng mình: một ngày nào đó không xa, tôi sẽ trở về và có nhiều thời gian hơn để khám phá lại nơi đây. Tây Ninh bao giờ cũng ở trong tôi và mãi mãi vẫn là quê hương tôi.
Tây ninh có núi điện bà
Tha la xóm đạo và nhà ba tôi!
Virginia, 18 tháng 8 năm 2012