26 tháng 11, 2025

VTM 181_Mùa Thu lỗi hẹn_Nguyễn Cang



Xướng:

Mùa Thu lỗi hẹn

Hiu hắt vườn xưa gọi gió thu
Sớm mai đồi núi phủ sương mù
Hàng cây vàng lá cành xơ xác
Thành phố sương mờ cảnh tịch u
Mây tím hoàng hôn nghe buốt giá
Trời chiều hoàng hạc ngóng trăng lu
Đồi sim mấy độ ta ngồi đợi
Sao nỡ qua đò bỏ bến thu?!!
Nguyễn Cang
Nov. 5, 2025


Họa 1:

Vào thu

Sông buồn man mác nhuộm hơi thu,
Sương phủ không gian, đất tối mù
Khí lạnh giăng đầy, non trắng xóa
Đò chiều thưa thớt, bến âm u.
Hết vương tơ nắng hoàng hôn lịm,
Vừa mở vành cung ánh nguyệt lu.
Về tổ, đàn cò xao xác gọi,
Thuyền ai thơ thẩn đợi trăng thu?
Minh Tâm

Họa 2:

Trăng Thu

Hằng năm mỗi độ cứ vào thu
Ngày ngắn canh thâu tối mịt mù
Đất khách rừng phong màu lá úa
Không gian khoảnh khắc thấy âm u
Tâm tư gởi gắm theo chiều gió
Kỷ niệm phai mờ ảo ảnh lu
Lữ khách bâng khuâng lòng rộn rã
Đêm về lặng lẽ ngắm trăng thu
Hương Lệ Oanh VA
Nov, 6. 2025

Họa 3:
 








Cảnh thu

Hoa hồng đơn độc giữa mùa thu
Đỏ thắm xóa tan cảnh mịt mù
Phản chiếu nắng chiều cây sáng chói
Lá vàng che lấp cảnh mù u
Rừng cây trơ trọi cành hiu quạnh
Lấp lánh ánh đèn lúc tỏ lu
Vắng bóng đàn chim kêu ríu rít
Đóa hồng chễm chệ đón trăng thu
PTL 

Họa 4:

Dáng thu xưa

Ta về phố nhỏ giữa mùa thu
Lối cũ mây ùn gợn xám mù
Cảnh vắng chiều nghiêng đời vội vã
Sân mờ liễu rũ dáng âm u
Màn đêm phả nhẹ làn hơi ấm
Bóng tối vờn quanh ngọn nến lu
Trở gót buồn thương tình phố cổ
Rừng cây tiễn bước rực vàng thu
TQ
Nov. 2025

1.Tân nhạc: Thu sầu

Sáng tác: Lam Phương

Ca sĩ: Tạo bởi AI computer






2. Cổ nhạc: Thu Buồn
Soạn giả:: Phan Văn Thanh
Nghệ sỹ: Trọng Hữu 



Nói lối:
Người đi đi giữa phố khuya,
Hạt mưa trĩu nặng rụng bên thềm.
Đêm nay phố vắng đèn heo hút
Chút gió thu đông lạnh thắm lòng.

Vọng cổ

Câu1:

Thôi em ơi đừng ru làm chi những lời ru hờn trách, đâu phải tại gió thu đông đã chia cách mối duyên tình ...
Lối cũ đường quê đã in bóng đôi mình .......
Bên ngõ vắng những chiều hò hẹn, tim ai ngập ngừng theo từng chiếc lá vàng rơi.
Phải đâu giọt thu buồn làm nước mắt em rơi, trong phút chia tay để mỗi đứa một phương buồn.
Rồi tình cứ xa dần theo năm tháng người đi, để buồn nát con tim, để một đời nuối tiếc.

Câu 2:

Trời cho giọt nắng giọt mưa,
Ai đem giọt đắng gieo vào hồn tôi.
Giọt buồn còn đọng trên môi,
Giọt sầu ai để cả đời tôi mang ?
Tôi muốn khuyên em thôi đừng trách hờn mùa thu nữa, rồi tự khuyên tôi đừng đổ lỗi cho người ...
Thời gian đi có trở lại bao giờ ...
Cuộc đời tôi đã lắm nhiều bão tố, tại phận mình hay do số trời trao.
Xin em đừng thổn thức bước thu qua, đừng nhặt lá vàng nơi ngõ xưa mình hò hẹn. Dẫu đáy tim tôi tình em còn nguyên vẹn, kỷ niệm ngày nào tôi đâu dễ gì quên.

Ngâm thơ:

Người đi đi giữa chốn đời
Xin làm lữ khách cố nhân ơi,
Vấn vương, vương vấn mùa thu chết,
Ngõ vắng tình buồn lạnh lắm không ?

Câu 5:

Ngõ vắng tình yêu em sợ mùa thu không trở lại, cho con tim tê tái buổi đông về ....
Sợ ngọn gió heo may thổi lạnh nỗi mong chờ ...
Sợ lá vàng rơi ngập đường xưa lối cũ, sợ áng mây buồn che khuất mảnh trăng thu. Ngày tôi về đi giữa phố đêm, tìm lại lối thu xưa, lối thu buồn quanh quẽ.
Người về viết lại vần thơ,
Đường xưa lối cũ mưa rơi giọt buồn

Câu 6:

Thu nay lại về nhưng cuộc tình đã lỡ, bến hạnh phúc đây rồi sao thuyền chẳng buông neo ?
Biết em buồn nên dám trách ai đâu, tại tôi lắm đa đoan như kiếp tằm còn nặng nợ.
Đời tài hoa cũng là đời đau khổ, kẻ đa tình hay vướng bận tình duyên.
Tự nhủ lòng đâu ai có lỗi, chỉ thiếu với nhau một mối nợ tình.
Người đi để lại đêm dài,
Người đi để lại tháng ngày nhớ mong.
Đợi chờ thu lại sang đông,
Tình đà dang dở, tình buồn biệt ly

23 tháng 11, 2025

Nghĩ về Thầy Cô ở Đại Học Sư Phạm - Vũ hoàng Hoa

 

Dãy lầu ban Văn chương ĐHSPSG



Vũ hoàng Hoa

(Trong Trang Văn Chương Miền Nam)

 Tôi vào Đại học Sư phạm Saigon ngày 18. Lúc đó, tuổi thành niên là 21. Tôi không đủ tuổi để nói chuyện với chính phủ(!) nên Ba tôi phải ký giấy cam kết hoàn lại toàn bộ số tiền học bổng mà chính phủ sẽ cấp cho tôi, sinh viên Sư phạm trong suốt học trình 4 năm nếu tôi bỏ nhiệm sở trước khi hết hợp đồng 10 năm. Lúc đó ký là ký thôi. Ba tôi và tôi không thắc mắc tại sao lại có chuyện cam kết này.

Sau này tôi mới vỡ lẽ ra là vì tình trạng chiến tranh, có thể chúng tôi rơi vào những nhiệm sở thuộc vùng” xôi đậu “ bất ổn nên tờ giấy cam kết đó là sợi dây buộc chặt chúng tôi để khỏi... đào nhiệm!

Tôi vào Sư phạm vì vâng lời Ba tôi. Ba muốn tôi có việc làm chắc chắn sau khi ra trường chứ ông không muốn tôi phải vác bằng cấp long đong đi xin việc, hơn nữa, theo Ba tôi, dạy học là một nghề hiền lành, thích hợp với tôi, một con bé nhút nhát, chậm chạp!

Tôi không mấy hứng thú nhưng không dám cãi lời Ba và cũng vì ham áo mũ ra trường, coi rất bảnh( khiếp ! chưa vào học mà đã tính chuyện tốt nghiệp!) và số tiền học bổng ba ngàn mỗi tháng nên “cũng liều... nhắm mắt đưa chân , mà xem con tạo xoay vần đến đâu “ 

Năm tôi vào trường thì thẩy Trần văn Tấn, tiến sĩ toán, tốt nghiệp ở Pháp là giáo sư khoa trưởng.

Ở Sư phạm, tôi gần như không biết đại giảng đường là gì, chỉ trừ hai kỳ thi bán niên thì chúng tôi mới tập trung vào đại giảng đường ( nhỏ xíu!) để thi cùng với sinh viên của các ban khác gồm Sử địa, Anh văn, Pháp văn. Còn xuân thu nhị kỳ chúng tôi chỉ quanh quẩn trong lớp học của bốn mươi sinh viên . 

Những ngày đầu ở Sư phạm, tôi không vui vì ít ra một năm Văn khoa cũng đã cho tôi cảm giác tự do, thoải mái mà tôi chưa bao giờ được hưởng. Ở Văn khoa, muốn đi học thì đi, không thì thôi, chỉ cần mua sách( cours) về học, tới kỳ thi thì lại là kiếp con tằm... nhả tơ. Nhưng Sư phạm thì không, chúng tôi là những “ công chức” tương lai nên mỗi ngày phải đi học hai buổi sáng chiều, tám tiếng! Cứ mỗi hai giờ thì văn phòng sinh viên vụ lại đưa sổ điểm danh lên để sinh viên ký tên. Chúng tôi vẫn nói đùa là chữ ký của mình là chữ ký bằng vàng vì trường căn cứ vào đó mà phát học bổng!

Trường chúng tôi gồm hai dãy lầu cũ, ngăn cách bằng một sân cờ với hai thảm cỏ nhỏ. Tôi nghe nói, niên khoá đầu tiên của chúng tôi ở Sư phạm Saigon, trường chỉ có 900 sinh viên cho cả hai khối :nhân văn( khoa học xã hội gồm Việt Hán, Anh văn, Pháp văn và Sử Địa) và khoa học ( khoa học tự nhiên: Toán, Lý Hoá và Vạn vật). “ Hàng xóm” của chúng tôi là Trung học Petrus Ký, mặt tiền ở ngay đường Cộng Hoà, đối diện Tổng nha Cảnh Sát Quốc gia, kế đó là Đại học Khoa học.

Ở Sư phạm, tôi có cảm tưởng đang học trung học khi thầy gọi đọc bài, chúng tôi cũng phải đem tập lên bàn thầy, đứng vòng tay đọc bài! 

Các thầy cô phụ trách giảng dạy chúng tôi cũng tương đối trẻ. Giáo sư lớn tuổi nhất của chúng tôi năm ấy là thầy Trương văn Chình. Thầy Chình dạy môn Văn phạm. Điều làm tôi nhớ thầy mãi không phải là những bài giảng của thầy mà là vẻ... đẹp trai, ô không, vẻ đẹp lão của thầy!

Nguyễn tấn diệu Tâm, bạn thân của tôi và tôi cứ nhìn thầy xuýt xoa” Chu cha, thầy ơi! Thầy ăn chi mà thầy đẹp dễ sợ rứa? Chừ thầy già rồi mà còn đẹp cỡ ni, khi trẻ chắc có lắm cô chết vì thầy! “Và dĩ nhiên đó chỉ là những lời tán dương vẻ đẹp” khuynh thành “của thầy mà hai đứa tôi chỉ dám nhỏ to sau lưng thầy!

Mà phải công nhận, thầy tôi đẹp thật!

Buổi học đầu tiên thầy kể cho chúng tôi nghe sơ về gia thế của thầy. Trước kia, thầy là Tổng giám đốc bưu điện Saigon và thẩy có một người con trai đang đi học ở Úc, ngành kỹ sư đóng hộp. Sau này, bọn tôi thấy thầy có vẻ để ý ưu ái Thu Vân, bạn đồng môn của chúng tôi nên cả lũ hùa nhau chọc Thu Vân” Thầy chấm mày làm ... con dâu rồi đó! Mai mốt thầy sẽ... đóng hộp mày, gửi qua Úc! “ vả chúng tôi lăn ra cười mặc cho Thu Vân lúng túng, muốn khóc!

Nhưng rồi thế cuộc đổi thay nên Thu Vân không bị “ đóng hộp “ đi Úc mà hiện nay bạn đã là tiến sĩ, phó giáo sư đại học sư phạm thành hồ! 

Rồi chúng tôi có thầy Phan Hồng Lạc là giáo sư môn Hán văn. Thầy trẻ, hiền và cười với sinh viên hoài!

Ngoài ra, thầy còn là giáo sư hướng dẫn thực tập của chúng tôi trong bán niên đầu.Thầy ân cần dặn dò chúng tôi từng chút một. Với các nữ sinh viên, thầy nhắc chúng tôi đánh phấn hồng để che nét mặt xanh tái, bối rối khi lên bục giảng!

Thầy dịu dàng phân tích những ưu, khuyết điểm của chúng tôi trong giờ thực tập và không bao giờ thầy nỡ xuống tay với sinh viên! Thầy ơi! Bao nhiêu năm qua, không còn được gặp thầy nhưng bao giờ nghĩ đến các thầy cô, thì thầy vẫn là một trong những hình ảnh rất đáng quý, đối với em, thưa thầy!

Thầy biết không, ngày đó, sinh viên Việt Hán một chúng em đã ưu ái tặng thầy biệt danh:”Hoà thị chi bích”, theo đề bài Hán văn đầu tiên thầy dậy chúng em: Viên ngọc của người họ Hoà. 

Nói đến thầy Phan Hồng Lạc là phải nhắc tới thầy Lê hữu Mục. Thầy Mục giảng dạy môn chữ Nôm. Thầy mập,giọng thầy ồm ồm, mới thoạt nhìn, tôi rất sợ! Nhưng thật ra, thầy Mục dễ thương lắm. Thầy tận tâm giảng dạy. Môn chữ Nôm là môn học mới mẻ và khá khó nuốt(!) vì để học được chữ Nôm thì chúng tôi phải biết chữ Hán đã, do chữ Nôm được cấu tạo từ chữ Hán...

Thầy Mục có lẽ cũng hiểu chúng tôi đa số chỉ mới học Hán văn năm Dự bị Văn chương Việt Nam ở Văn khoa nên vốn liếng chữ Hán cũng rất còm cõi do đó thầy dạy chậm, giải thích tường tận, nhờ vậy chúng tôi cũng đỡ vất vả. Nhớ có lần thầy bảo cả lớp viết tên thầy bằng chữ Hán, tất cả chúng tôi đều viết chữ Mục là con mắt! Lê hữu Mục là... ông Lê có mắt! Thầy đã lắc đầu, mắng chúng tôi “ Dốt! Dốt! Mục của thầy là hoà thuận chứ không phải là con mắt!”

Ngoài ra, thầy Mục còn là một vĩ cầm thủ tài hoa! Thầy rất nghệ sĩ! Thỉnh thoảng thầy hát cho trò nghe và thầy cũng bảo chúng tôi hát cho thầy bạn cùng nghe. Thầy Mục của con! Thầy Mục của những ngày chữ Nôm và tiếng hát sinh viên! 

Bên cạnh các thầy Phan Hồng Lạc, Lê hữu Mục là hai giáo sư Phạm văn Diêu và Phạm văn Đang. Hai thầy cùng họ, cùng chữ lót tưởng như anh em ruột nhưng thật ra không phải, thầy Diêu người trung, thầy Đang người bắc. Cả hai thầy chia nhau dạy chúng tôi phần Văn học Lý Trần. Thầy Diêu còn dạy thêm phần văn học dân gian. Thầy Diêu viết văn hay lắm, văn của thầy là một bài thơ! 

Thầy Đang còn trẻ !Tôi đoán thầy chỉ ngoài ba mươi một chút thôi! Thầy vui tính và tôi là sinh viên được thầy ưu ái vì tính tôi ... lẩm cẩm, thích tìm đọc những điển cố Trung hoa nên tôi đã trả lời được khi thầy hỏi” tại sao gọi là chín suối? Tại sao Cao Bá Quát lại có hiệu là Chu thần?”... 

Thầy Đang dễ chịu bao nhiêu thì thầy Diêu lại khó tính bấy nhiêu. Thầy hay rầy chúng tôi vì những “ lỗi” không do chúng tôi cố ý gây ra, thầy mới đến ngưỡng cửa lớp mà nếu chúng tôi chưa thấy, không kịp đứng lên chào là bị thầy “ dũa” te tua! Thầy Diêu cũng” biết mình biết ta” lắm(!) nên có lần thầy cay đắng bảo chúng tôi “ Ngày các anh chị ra trường, đừng mời tôi dự tiệc! Tôi biết các anh chị không ưa tôi nhưng đã phải chịu đựng tôi trong bấy nhiêu năm học, bây giờ, còn những giờ phút cuối, tôi phải tránh mặt đi để cho các anh chị thoải mái! “Nhìn vẻ mặt buồn bã của thầy khi nói, tôi bỗng thấy xót xa nhưng tận thâm tâm, tôi vẫn tự hỏi “ sao thầy không thể thân ái với chúng tôi như các thầy cô khác? Tại sao thầy phải khắt khe với chúng tôi để thầy buồn và chúng tôi cũng không vui? 

Thầy Diêu buồn thì thầy Nguyễn sĩ Tế lại vui, rất vui! Những giờ văn học Phương Tây với thầy tràn ngập tiếng cười! Thầy đã được chúng tôi tặng biệt danh” ông cố vấn dung nhan “ và biệt danh này chỉ luân lưu trong phạm vi sinh viên chúng tôi. Số là,khi thầy dạy tác phẩm “ Trưởng giả học làm sang”( Les bourgeois gentilles hommes) của Molière, thầy giảng những bà nhà giàu mới nổi, thích làm sang và để tỏ ra ta đây thuộc hàng danh giá, tách biệt khỏi giới bình dân thì họ cũng đổi cách ăn nói, chẳng hạn cái gương soi mặt ( le miroir)thì họ lại gọi là cái cố vấn dung nhan (le conseil de la beauté!)và thế là từ đó thầy có tên...! Ngoài ra, tôi còn nhớ hễ mỗi khi thầy đang giảng mà bỗng cúi xuống là sinh viên cũng lo lật đật ...cúi theo... để ghi cours cho kịp vì thẩy nói nhanh lắm!

Chúng tôi học với thầyTế hai giờ cuối,ngày thứ hai và lúc nào cũng vậy, tôi ra về với một nụ cười!

Cô Nguyễn thị Xuân Lan là nữ giáo sư duy nhất của chúng tôi, Việt Hán một- Pháp văn trong bán niên đầu. Tên sao người vậy! Cô người Huế, cô là biểu tượng dịu dàng, khả ái của núi Ngự sông Hương! Ngày đầu tiên cô đã cho chúng tôi được chọn bài học, cả lũ đã nhao nhao xin cô cho học tình thư lãng mạn, và bức thư tình đầu tiên cô dạy là tình thư của Napoléon gửi cho Joséphine. Tôi còn nhớ có lần cô dạy chữ dépeupler, nghĩa là làm cho bớt người, dãn dân...và cô giảng chữ này trong một câu thơ của Lamartine: “Un seul Etre vous manque et tout est dépeuplé( xin tạm dịch: vắng một người cả trời đất đều hoang vu!) Hay quá là hay! 

Thầy Lê thanh hoàng Dân và thầy Trần công Thiện phụ trách môn Tâm lý giáo dục. Buồn ngủ ơi là buồn ngủ! Thầy Lê thanh hoàng Dân cũng được chúng tôi nghịch ngợm “phong tặng” là “ông... tâm bệnh”(!) vì bài giảng của thầy lúc nào cũng là tâm bệnh, nghe một hồi tôi cũng muốn bị ... tâm bệnh luôn! 

Thầy Giản chi Nguyễn hữu Văn dạy môn Triết đông. Thầy hiền ơi là hiền và thầy cho chúng tôi cảm tưởng như đang được nghe thầy kể chuyện đời xưa. Thầy là một trong những vị thầy khả kính của chúng tôi! 

Thầy Lê Ngọc Trụ là giáo sư môn Ngữ âm của chúng tôi. Bây giờ thì tôi chẳng còn nhớ chút gì về những bài Ngữ âm nữa nhưng luôn nhớ thầy Trụ. Thầy cũng như thầy Giản Chi, rất hiền! 

Bán niên hai, cô Khưu sĩ Huệ thay thế thầy Phan Hồng Lạc,phụ trách môn Hán văn. Cô là biểu tượng của một lương sư! Cô không bao giờ đi trễ và cũng không bỏ buổi dạy nào.Cô thương học trò nhưng rất nghiêm!

Hai giờ đầu, chiều thứ Hai là giờ Hán văn. Buổi sáng chúng tôi đã ngất ngư với hai giờ Văn học Lý-Trần và Văn học Dân gian. Đến chiều là đã bắt đầu uể oải! Hơn nữa trời Sài Gòn nóng nực nên hai mắt cứ muốn nhíp lại. Nhưng buồn ngủ cách mấy thì cũng phải ráng trợn mắt mà nuốt cho xong mớ chữ Hán hỗn độn kia!

Cô Khưu sĩ Huệ không giảng dạy theo lối thường như các thầy cô khác. Cô tập cho chúng tôi tinh thần tự tìm tòi, học hỏi.

Có lần cô cho đề bài”tuần sau,chúng ta sẽ học động từ “vi”. Các anh chị về tự học và mỗi người ít nhất làm cho tôi bốn câu có chữ”vi”! Chữ”vi”: động từ “là “như to be trong tiếng Anh hay Être trong tiếng Pháp.

Thứ hai sau đó, cô kêu bốn đứa đầu tiên lên bảng và tôi “hân hạnh “ nằm trong bảng”phong thần” của cô!

Tấm bảng lớn được chia làm bốn phần, cho Trần Phú Lai mà chúng tôi vẫn nghịch ngợm đọc lái là Phái Lu, tôi và hai bạn nữa mà tôi đã quên tên rồi.

Chúng tôi hí hoáy viết. Sau đó, cô biểu chúng tôi đọc lớn bài làm của mình cho cả lớp nghe.

Câu đầu tiên của Trần Phú Lai:

Ngã vi bần sĩ! Nghĩa là: Tôi là học trò nghèo!

Cô nhăn mặt!

Đến phiên tôi!

Vi nhân, mạc vô tử! Nghĩa Là: làm người ai mà chẳng chết!

Cô lắc đầu!

Và hai bạn sau tôi cũng với những câu hắc ám, bi quan tương tự!

Cô chán nản!

Cô hỏi Phái Lu:

-Anh tên gì?

-Thưa cô, em tên Trần Phú Lai.

-Anh viết tên anh ra coi!( dĩ nhiên là viết tên bằng chữ Hán), xong cô biểu Phái Lu dịch tên hắn ra rồi cô la:

-Cha mẹ anh đặt cho anh cái tên hay như vậy nghĩa là ông bà muốn sự giàu có đến với anh. Hà cớ gì mà anh lại nói anh là học trò nghèo?

Xong đời Phái Lu!

Đến phiên tôi, sau khi tôi đọc và dịch xong phần bài làm của mình, cô nghiêng đầu ngó tôi:

-Chị mấy tuổi?

-Thưa cô, con 18.

-Chị còn trẻ quá! Sống chưa được bao nhiêu sao đã lo chuyện chết?!

Tôi đứng yên, tàn đời!

Hai người bạn sau cũng đồng cảnh ngộ như Phái Lu và tôi!

Sau đó cô bảo tất cả chúng tôi viết tên mình nạp cho cô.

Tuần kế, cả lớp đều thoát “nạn”, chỉ trừ Tuyết Lệ!

Cô hỏi Tuyết Lệ:

-Chữ Lệ nghĩa là gì?

-Thưa cô, nước mắt.

Cô la:

-Chị nghĩ sao mà lại nói như vậy? Bộ khi sinh chị ra, ba má chị buồn lắm hả?

Và cô hỏi tiếp:

-Chị có biết nghĩa khác của chữ Lệ không?

Tuyết Lệ ấp úng:

-Thưa cô,không!

-Lệ có nghĩa là đẹp đẽ như tráng lệ, diễm lệ…

Một lần, giờ Hán văn của cô, lớp tôi có đến ba, bốn bạn đi trễ! Cô giận lắm nhưng cô vẫn ổn tồn bảo:

-Các anh chị phải biết, các anh chị ở trường này để được đào tạo thành thầy cô. Các anh chị nghĩ thế nào nếu mai này tới giờ dạy, các anh chị đã ở trên bục giảng mà cứ năm phút một đứa học trò đi vào, năm phút sau lại đứa kế tiếp?

Tất cả chúng tôi cúi gầm mặt xuống, im lặng! Từ đó về sau, giờ thầy cô nào còn dám đi trễ chứ giờ cô Khưu sĩ Huệ thì đố! Chưa tới giờ đã đủ mặt … bá quan văn võ!

 Và cứ thế, cuộc đời sinh viên của chúng tôi khi nổi, khi chìm. Cho đến một ngày

Ngày 30.04.1975!

Mệnh nước trầm luân!

Mệnh người phiêu bạt

 

Thưa các thầy cô!

Con, học trò của quý thầy cô, đã từ bao nhiêu năm rồi.

Ngày 30.04.1975, nước mất, nhà tan! Thầy cô và chúng con cũng theo dòng sinh mệnh của dân tộc mà chung cảnh trầm luân!

Ngày vào Sư phạm, con mang ước vọng cũng như quý thầy cô, đem kiến thức đã được truyền thụ để hướng dẫn cho các thế hệ đàn em, làm cho các em hiểu và yêu mến tiếng Việt, tự hào về dân tộc mình. Nhưng thầy cô ơi! Con đã không làm được điều thầy cô kỳ vọng ở chúng con! Con rất buồn! Nhưng biết làm sao hơn được?!

Giờ này, sau bao cuộc bể dâu, quý thầy cô và chúng con chắc cũng khó lòng mong một ngày trở về, đoàn tụ dưới mái trường Sư phạm thân yêu!

Quý thầy cô, nếu còn thì cũng đã quá trọng tuổi và nhiều thầy cô đã trở về cùng cát bụi!

Những Lương sư đã không thấy được ngày Hưng Quốc!

Đau lòng xiết bao!

Giờ đây, con cũng như các bạn hữu chỉ xin kính chúc các thầy cô còn hiện diện với chúng con hai chữ an khang và với các thầy cô đã đi vào cõi thiên thu, con nguyện xin Thượng đế đưa quý thầy cô của chúng con về miền Vĩnh phúc!

Và chúng con xin chân thành cảm tạ công ơn giáo dục của quý thầy cô cho chúng con được như hôm nay. Có thể chúng con không thành công nhưng ít ra quý thầy cô cũng có thể mỉm cười khi biết chúng con, lớp hậu sinh của quý thầy cô đã thành nhân! Và câu châm ngôn “Lương Sư Hưng Quốc “ với riêng con, là điều tâm niệm mãi mãi.

Kính và thương,

Con,

Vũ hoàng Hoa

(Trong Trang Văn Chương Miền Nam)

Nguồn:

https://groups.google.com/g/70ab/c/7e-qSnkhEqM?pli=1

06 tháng 11, 2025

VTM 180_Chuyện ngày xưa_Hương Lệ Oanh VA

 





Xướng:

Chuyện ngày xưa 

Tuổi thơ mới độ trăng rằm
Ngẩn ngơ trước gió âm thầm chiều mưa
Bây chừ nhớ chuyện ngày xưa
Lâng lâng xao xuyến như vừa biết yêu
Thơ ngây mơ mộng thật nhiều
Nào là hoàng tử các triều đại vua
Đêm qua có gió giao mùa
Bàng hoàng chợt tỉnh mới vừa chiêm bao
Thời gian thắm thoát qua mau
Lần tay tính nhẩm tuổi cao ngất trời
Hôm nay bổng thấy yêu đời
Bâng khuâng chợt tỉnh thảnh thơi tâm hồn
Hương Lệ Oanh VA
Oct. 2025

Họa 1:


Hương xưa

Vườn xưa trăng rạng đêm rằm
Người đi xa xứ khóc thầm trong mưa
Bây giờ kể chuyện đời xưa
Lòng nghe nặng trĩu cho vừa chữ yêu
Học trò xây mộng quá nhiều
Mơ em mười sáu hoàng triều cung vua
Nằm nghe gió lạnh đầu mùa
Mùa thu chợt tắt cho vừa chiêm bao
Phù du một kiếp tàn mau
Lần tay đếm lại dáng cao cuối trời
Nhưng sao ta vẫn yêu đời
Buông rơi phiền muộn thảnh thơi trong hồn
Nguyễn Cang
Oct.15, 2025

Họa 2:

Nhân sinh

Mỗi năm tháng tám ngày rằm
Trung thu lại đến ước thầm không mưa
Ngồi đây nhớ lại năm xưa
Tuổi thơ trong trắng lại vừa đáng yêu
Trưởng thành ước vọng quá nhiều
Tránh xa cái cảnh quan triều chúa vua
Trăng lên lấp lánh gió mùa
Ước mơ công toại cho vừa xiết bao
Nhân sinh biến đổi thật mau
Giữ gìn đức hạnh ngước cao nhìn trời
Dấn thân thiện nguyện giúp đời 
Ngắm trăng tự tại thảnh thơi tâm hồn
PTL
Oct. 2025
 tự tại 自在: An nhàn tự đắc, thân tâm khoan khoái

Họa 3:

Nhớ chuyện xưa

Trăng vừa tóa sáng đêm rằm,
Mây đen vần vũ báo thầm cơn mưa.
Thẩn thờ nhớ chuyện xa xưa,
Một thời áo trắng tuổi vừa vào yêu.
Buồng tim rộn rã thêm nhiều
Gặp nàng bối rối như triều kiến vua
Lời thương không nói bao mùa,
Trao nhau ánh mắt thật vừa biết bao.
Thời gian vun vút trôi mau,
Mấy mươi năm đã ngút cao tuổi trời.
Gặp nhau đôi hướng dòng đời
Niềm riêng trao gửi thanh thơi chút hồn.
Minh Tâm

Họa 4:

Thoáng xót xa đưa 

Bốn mùa mờ tỏ mấy rằm
Quanh năm suốt tháng lầm thầm nắng mưa
Xa quê nhớ lại chuyện xưa
Nửa buồn xót dạ nửa vừa thương yêu
Bạn thầy yên phận đã nhiều
Hậu cung tĩnh lặng tiền triều không vua
Núi sông trầm lắng chuyển mùa
Huế muôn đời tiết nghĩa vừa xiết bao
Gió thời suy thịnh thổi mau
Lục bình gặp nước dâng cao lên trời
Ngẫm muôn sự thế ở đời
Giữ tâm an đinh cho thơi thới hồn
TQ
Oct. 18, 2025 

1. Tân nhạc: Chuyện ngày xưa
Sáng tác: Trúc Phương
Ca sĩ: Trinh Nam Phương






2. Cổ nhạc: Xin trả lại thời gian
Soạn giả: Viễn Châu
Tân nhạc: Thanh Sơn
Nghệ sĩ: Thùy Dương




Tân nhạc:

Xin trả lại những kỷ niệm buồn vui
Ngày xanh đã theo thời gian qua mất rồi
Ngồi viết tâm sự nhớ ngược về quá khứ
Chợt lên nét suy tư, bao năm thầm kín
Trót thương tà áo tím
Những đêm sương lạnh nghe trái sầu rót vào tim

Thương rất nhiều mái tóc xõa bờ vai
Tình khôn lớn nơi chờ mong ôi quá dài
Lòng vẫn u hoài thấy chuyện tình đổi thay
Đời ai biết được ai, chia ly là hết, xót xa nhiều cũng thế
Nếu mai sau gặp… xin cúi mặt… làm ngơ

Vọng cổ

Câu 1:

Xin trả cho ai những tiếng yêu thương những lời hò hẹn, những buồn vui kỷ niệm đã xa… rồi.
Thu đã về trên mái tóc u sầu.
Nhớ thuở thầm yêu tà áo tím, mưa gió ngoài trời lạnh buốt tim tôi.
Đã vì ai thức trắng đêm thâu, chép nhớ thương vào trang nhật ký.
Đã vì ai đứng ngóng buổi tan trường, ngẩn ngơ nhìn cánh phượng bay lộng gió.

Câu 2:

Ôi thương biết bao nhiêu màu áo trắng, tình lớn dần theo tháng rộng năm dài.
Bao nhớ thương đem góp lại thành lời.
Buổi đầu tiên anh chờ em cuối ngõ, để nói lên lời nói yêu thương.
Em cuối mặt má hồng e thẹn, tay mân mê tà áo thướt tha.
Tia nắng nhạt trải vàng trên lối cũ, lòng rộn ràng như chấp cánh bay xa.

Tân nhạc

Thời gian có ngừng đi bao giờ,
Thương tiếc rồi cũng làm buồn vu vơ,
Nhiều lúc muốn quên để xóa mờ,
Nhưng mỗi lần nhìn xuân
 về tưởng nhớ,
Người đó ta đây,
Tình vẫn chia phôi

Biết cuộc đời mình ra sao.

Vọng cổ

Câu 6:

Người ơi! nếu mai đây có còn gặp gỡ, thì xin  người cứ ngoảnh mặt làm ngơ.
Hãy xem như chưa quen biết
 bao giờ, để mặc tôi với chuỗi ngày cô độc.
Đời đã không như lòng mình mơ ước, thì thôi đừng tưởng nhớ mà chi.
Hãy để mình tôi với buồn vui kỷ niệm, lấy đắng cay làm hương vị cuộc đời.
Xin hãy để mình tôi thổn thức, để mình tôi nuối tiếc chuyện tình xưa
Lời âu yếm bây giờ nghe lạc lõng, nhớ thương giờ xin trả lại thời gian.