25 tháng 9, 2024

Thơ tình toán học_Toàn Phong NGUYỄN XUÂN VINH

 
Lời nói của Weierstrass: “It is true that a mathematician who is not also something of a poet will never be a perfect mathematician”.
Câu này có thể tạm dịch là:
“Thật đúng vậy, là một toán gia nếu không cùng một lúc là một thi sĩ thì không thể nào là một toán gia vẹn toàn được”.


1.Tình Hư Ảo 
Anh tìm em trên vòng tròn lượng giác,
Nét diễm kiều trong tọa độ không gian.
Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn,
Còn tất cả chỉ theo chiều hư ảo.
Bao mơ ước, phải chi là nghịch đảo,
Bóng thời gian, quy chiếu xuống giản đồ.
Nghiệm số tìm, giờ chỉ có hư vô,
Đường hội tụ, hay phân kỳ giải tích.
Anh chờ đợi một lời em giải thích,
Qua môi trường có vòng chuẩn chính phương.
Hệ số đo cường độ của tình thương,
Định lý đảo, tìm ra vì giao hoán.
Nếu mai đây tương quan thành gián đoạn,
Tính không ra phương chính của cấp thang.
Anh ra đi theo hàm số ẩn tàng,
Em trọn vẹn thành phương trình vô nghiệm. 


2. Núi Đồi
Nơi đây có núi cùng đồi,
Có con suối nhỏ, da trời mầu xanh.
Phương trình, em gửi tới anh,
Tìm xem đường kẻ song hành nơi nao?

 3. Sóng Nước
Đời tổng hợp bởi muôn làn sóng cuộn,
Mà tình anh là quỹ tích của không gian.
Kiếp nhân sinh là hàm số tuần hoàn,
Nên quanh quẩn trên vòng tròn lượng giác.

4. Song Song
Ai nghiên cứu vẽ ra đường quỹ tích,
Của tình yêu, hàm số tuổi ngây thơ?
Lúc kề bù, thẳng tắp quãng đường mơ,
Còn song song trên kiếp người vô tận.

5. Tâm Điểm
Tình là vậy, từ chân không chợt đến,
Một vòng tròn quay hai nửa tim hồng.
Để mỗi ngày đôi chân bước song song
Mong đi tới tận cùng là giao điểm
Em yêu anh, nên anh là tâm điểm
Giữa vòng tròn hạnh phúc của đời em.
Dẫu thời gian, không gian hoài biến chuyển,
Quỹ tích này vẫn mãi chỉ chờ anh.

6. Bâng Khuâng
Trời về khuya, bóng hình ai thương nhớ,
Muốn quên đi, vì giấc mộng không thành.
Vẽ cho cùng, không trọn trái tim anh,
Em đành đem chuyện chúng mình cất lại.
Trang giấy nhầu ghi chút tình thơ dại,
Ngơ ngác buồn cây bút nhạt tình anh.
Em đã mang lượng số tính cho nhanh,
Tìm công thức đo trái tim mọng đỏ.

 7. Ly Biệt
Anh ngỡ ngàng, đọc phương trình em gửi,
Để nhận rằng đường anh bước song song.
Đôi ta đi, dù tới cõi vô cùng,
Nhịp sống đời chẳng bao giờ hội tụ.
Thôi đi nhé, không gian và vũ trụ,
Bóng thời gian tồn tại mãi không phai.
Bội số nhân, cộng lại dạ quan hoài,
Chỉ chờ anh, và chờ anh mãi mãi.


8. Biết Mấy Cân Bằng
Đời tổng hợp biết bao hàm số,
Mà giải nên trọn kiếp nhân sinh.
Vì tình yêu chính là độc nghiệm,
Ta mơ tìm phương pháp chứng minh.
Vào không gian tình là hình học,
Tính đạo hàm! Em sẽ soát con tim.
Ngừng nơi đó, không ra định lý,
Chờ phút giây, cho mộng đắm chìm. 
Nguồn hạnh phúc gồm bao ẩn số?
Hệ phương trình, đủ lý giải chăng?
Đẳng thức nào đem ra liên kết? 
Đợi chờ nhau, biết mấy cân bằng!


9. Người Tình Không Gian 
Anh với em đồng quy trên mặt phẳng,
Từ một chiều xa lạ của không gian, 
Từ một buổi trao tần số ngỡ ngàng,
Vùng tiếp tuyến trên bờ môi, nhất định. 
Đã trót yêu, từ tâm theo bán kính. 
Mối tình đầu không hệ luận tương lai. 
Biết anh đi trên quỹ tích đường dài, 
Hồ mắt lệ, em vương chiều tọa độ.
Giải đạo hàm em mong tìm nghiệm số. 
Kỷ niệm buồn, cực đại giữa tim ai? 
Đem nhớ thương, không còn biết ngày mai,
Đã yêu rồi, tình đôi ta bất biến. 
Anh từng nói yêu trong tình thánh thiện,
Rút căn rồi hội luận có bằng không.
Khi biết mai sau em phải theo chồng, 
Buồn thẳng góc theo những đường tiệm cận. 
Chiều nhớ thương chất chồng theo vô tận,
Anh đi rồi định lý sẽ sai đi. 
Giải đoán nào lại không ướt bờ mi,
Thôi, chỉ đợi kiếp sau thành nhất thể.
Anh hiểu chưa, cõi lòng em như thế,
Em muôn đời không đổi trục, anh ơi. 
Nhớ thương anh, tuy chẳng nói nên lời,
Em mơ ước theo cung đường tối lợi. 
Tìm giao điểm cho lòng ai mở hội, 
Xác định rồi vẽ đồ thị triển khai, 
Rồi chứng minh tỷ lệ suốt đêm dài, 
Lên đáp số đóng khung đời hình học.
Bài toán tình luôn làm người mê hoặc,
Bởi muôn đời nó vô định, người ơi!!

Toàn Phong NGUYỄN XUÂN VINH



Nguyễn Xuân Vinh gặp Tổng Thống Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan (1961)




Trước 30-4-1975:
Học sinh lớp đệ nhị (lớp 11) ban B  đều khư khư bên mình quyển toán Hình học không gian.
Học sinh lớp đệ nhất (lớp 12) ban B đều gối đầu nằm quyển Lượng giác học 
của cựu giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. 

(Trước 30-4-1975 : Vạn vật ban A, Toán ban B, văn chương ban C, 
Hán văn ban D cho người Hoa)

Vậy gs Vinh là ai ?


Sau đây là bài viết của giáo sư Vinh:


Tôi không phải là một thi nhân, để có nhiều thì giờ nhàn rỗi ngâm trăng vịnh gió vì cuộc đời của tôi là một chuỗi ngày phải tranh đấu liên miên. Mặt khác công nghiệp của tôi là ở trong quân đội và trong ngành giáo dục và khảo cứu về toán học nên lại càng ít có dịp làm bạn với thơ văn. Nhưng từ nhỏ tôi vẫn mơ làm thi sĩ, nghĩa là vẫn ôm mộng làm thơ. Đọc ở trong sách tôi được thấy là muốn thành một toán gia siêu việt cần phải có một bộ óc giầu tưởng tượng, phải có chút ít thơ mộng, vượt qua những tầm thường gò bó của thế tục. Nhà toán học Đức quốc lừng danh Karl Weierstrass (1815-1897) của thế kỷ 19 đã viết rằng:
“It is true that a mathematician who is not also something of a poet will never be a perfect mathematician”.
Câu này có thể tạm dịch là:
“Thật đúng vậy, là một toán gia nếu không cùng một lúc là một thi sĩ thì không thể nào là một toán gia vẹn toàn được”.
Vì tin ở lời nói của Weierstrass, là một toán gia tôi rất hâm mộ, nên đôi khi trăn trở về một bài toán mà tôi chưa tìm ra được lời giải toàn vẹn, tôi cũng đã từng đổi bút, làm thơ. Cho đến nay thì những bài thơ tôi đã làm chưa phải là thơ tình vì còn nặng mầu sắc toán học. Dưới đây là một bài tiêu biểu: 
“It is true that a mathematician who is not also something of a poet will never be a perfect mathematician”.
Câu này có thể tạm dịch là:
“Thật đúng vậy, là một toán gia nếu không cùng một lúc là một thi sĩ thì không thể nào là một toán gia vẹn toàn được”.

Vì tin ở lời nói của Weierstrass, là một toán gia tôi rất hâm mộ, nên đôi khi trăn trở về một bài toán mà tôi chưa tìm ra được lời giải toàn vẹn, tôi cũng đã từng đổi bút, làm thơ. Cho đến nay thì những bài thơ tôi đã làm chưa phải là thơ tình vì còn nặng mầu sắc toán học.

 Dưới đây là một bài tiêu biểu: 

Tình Hư Ảo 
Anh tìm em trên vòng tròn lượng giác,
Nét diễm kiều trong tọa độ không gian.
Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn,
Còn tất cả chỉ theo chiều hư ảo.
Bao mơ ước, phải chi là nghịch đảo,
Bóng thời gian, quy chiếu xuống giản đồ.
Nghiệm số tìm, giờ chỉ có hư vô,
Đường hội tụ, hay phân kỳ giải tích.
Anh chờ đợi một lời em giải thích,
Qua môi trường có vòng chuẩn chính phương.
Hệ số đo cường độ của tình thương,
Định lý đảo, tìm ra vì giao hoán.
Nếu mai đây tương quan thành gián đoạn,
Tính không ra phương chính của cấp thang.
Anh ra đi theo hàm số ẩn tàng,
Em trọn vẹn thành phương trình vô nghiệm. 
Toàn Phong

Đầu năm Quý Mùi tôi viết một bài tâm tư đăng báo Xuân và ghép theo bài thơ trong đó. Sau khi số báo phát hành, tôi nhận được lác đác vài bức thư của độc giả gửi về khen ngợi ở chỗ tôi đã chuyển được ý toán thành lời thơ. Nhưng có một bức thư ở một nơi xa lạ gửi về làm tôi chú ý. Trong phong bì nhỏ có kèm theo một bức hình một phong cảnh núi đồi và dưới có bốn câu thơ: 

Núi Đồi
Nơi đây có núi cùng đồi,
Có con suối nhỏ, da trời mầu xanh.
Phương trình, em gửi tới anh,
Tìm xem đường kẻ song hành nơi nao?

Ở dưới có một dòng chữ nhỏ viết thật đều: “Nơi đây anh ra đời-- Trang Hồng Quỳ”. Tôi nghĩ là tên tác giả chỉ là bút hiệu, và bài thơ không nặng lắm về toán nên không có nghĩa là tác giả đã cảm hứng khi đọc bài thơ của tôi mà viết ra. Vì tôi thích phong cảnh núi đồi nên đã giữ tấm hình và ghim trên tấm bảng ở bên bàn học.
Sang tháng sau, tôi nhận được thêm một bức thư cũng cùng một tuồng chữ, nhưng theo dấu bưu điện thì gửi tới từ một phương trời khác. Lần này có tấm hình một con sông lớn, có loáng thoáng mấy chiếc tầu bể neo bên bờ. Ở dưới có đề bốn câu thơ: 

Sóng Nước
Đời tổng hợp bởi muôn làn sóng cuộn,
Mà tình anh là quỹ tích của không gian.
Kiếp nhân sinh là hàm số tuần hoàn,
Nên quanh quẩn trên vòng tròn lượng giác.

Dòng chữ nhỏ kèm theo lần này đề là: "Nơi đây anh lớn lên-- Trang Thúy Minh". Lần này tôi nhận ngay ra được con sông, một con sông quá quen thuộc, thuở nhỏ tôi thường ra chơi với một đứa bạn học nhà ở gần đó. Đứa bạn tôi tên là Nguyễn nên mới theo dõi bước Văn Tế, sau này tôi cũng không nghe được tin tức gì đặc biệt, nhưng hắn có người anh ruột thật nổi tiếng là nhạc sĩ Văn Cao. Còn con sông đó là sông Cửa Cấm ở Hải Phòng, là thành phố mà tôi đã theo học ở trường tiểu học Bonnal, sau đổi thành trường Ngô Quyền. Và như vậy thì bức hình chụp cảnh núi đồi là ở địa phương Yên Bái, nơi tôi sinh ra đời, nhưng khi được đầy năm thì gia đình lại dọn về Hải Phòng. Hình ảnh của người gửi thư giờ cũng dần dần hiện ra trước mắt tôi. Người đó chắc phải là một người học trò cũ, đã đọc những truyện tôi viết tả cuộc đời mình nên mới biết rõ nơi tôi sinh ra và nơi tôi theo học trường tiểu học. Qua tên hay bút hiệu thì tôi không thể nào đoán được tác giả là một nam sinh hay là nữ sinh vì chỉ là tên giả, nhưng phải là một người đối với tôi có chút quan hoài đường tôi đi và sưu tầm những bức hình, phong cảnh của những nơi tôi đã cư ngụ.
Về toán học muốn vẽ một đường thẳng, ta phải cần hai điểm. Muốn biểu diễn cho một hàm số tăng hay giảm bất thường theo một đường cong ta phải cần ít nhất ba điểm. Tác giả bí mật đã cho tôi hai thông tin, nên giờ tôi chỉ cần nhận được bức thư thứ ba là đoán rõ được nhiều chuyện. Nếu có thêm dữ kiện, tôi có thể đoán biết được rằng người viết thư thân thiết để giới thiệu những ngọn núi hay đầu sông mà tôi đã đi qua, những bến nước mà tôi đã dừng chân, người ấy có liên hệ gì với tôi. Cả một tháng Ba đã đi qua, mà tôi vẫn mong đợi, chờ hoài dằng dặc mà không nhận được chiếc phong bì bé nhỏ xinh xinh. Lá thư thứ ba phải đợi đến cuối mùa xuân mới tới, và quả như tôi đã đoán trước, tấm hình gửi theo là hình hồ Gươm với tháp Rùa ở Hà Nội, nơi tôi theo học ở bậc trung học và năm đầu ở đại học. Những bức thư gửi tới mà tôi nhận được đã theo diễn biến thời gian, và tác giả những bức thư đã đọc ở đâu đó tiểu sử cuộc đời tôi. Tôi nhớ đến hai câu thơ của cụ Đồ Chiểu, viết trong cuốn "Lục Vân Tiên":
"Lênh đênh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước đưa mình vào đâu."
Tôi mới dừng chân ở vài bến nước, và dạo đó con thuyền tình cảm của tôi vẫn còn lênh đênh trên gợn sóng chưa trôi dạt vào một bến bờ nào. Bốn câu thơ viết dưới tấm hình hồ Gươm, lần này nặng hơn về toán học, và cường độ thiết tha cũng đã tăng lên gấp bội:

Song Song
Ai nghiên cứu vẽ ra đường quỹ tích,
Của tình yêu, hàm số tuổi ngây thơ?
Lúc kề bù, thẳng tắp quãng đường mơ,
Còn song song trên kiếp người vô tận.

Dòng chữ phụ đề trước đây đượm mầu thanh lịch, nhưng lần này nét chữ có vẻ đậm hơn. Tôi đọc được "Nơi đây anh gặp nàng - Trang Phi Phượng." Tôi hơi thắc mắc về hai chữ "gặp nàng", và chợt nhớ ra rằng tôi đã viết cuốn truyện "Đời Phi Công" trong đó tôi đã nói là gặp một người bạn gái có tên là Phượng. Kể tuổi đời năm ấy mười tám, đôi mươi là lúc tôi đang theo học ở thành phố bên trong con sông Hồng. Cuốn truyện này được các bạn trẻ thời xưa rất ham chuộng mà hình như các học sinh cũ của tôi ai cũng mua một cuốn và mang tới lớp học để xin tôi chữ ký lưu niệm. Tôi nghĩ rằng một học sinh cũ hay một người bạn nào đó, từ thuở xa xưa, đã dùng lối gửi thư này để nhắc nhở và nhắn tôi hai điều. Thứ nhất là xưa kia tôi đã viết những bài về nghiệp bay, mở đầu cho một nền văn chương hướng về đề tài không gian và vũ trụ, và những người mà cuộc đời trải theo mây trời có thể khai thác như là một nguồn cảm xúc vô tận. Thứ hai là người gửi thư muốn khuyến khích tôi viết tiếp nối bài thơ "Tình Hư Ảo" để lập ra trường phái thơ tình toán học, coi như là một cuộc kết hợp kỳ diệu giữa thơ văn và khoa học, và phổ biến rộng rãi những bài thơ theo thể loại này để cho giới trẻ, dù cho ở ngành chuyên môn nào cũng có thể sáng tác thơ văn bắt nguồn từ môi trường hoạt động của mình. Và để tỏ tình đồng điệu, tác giả đã đóng góp thêm mấy bài thơ.
Mỗi bài thơ tôi nhận được tôi có thể họa lại hay viết tiếp nối. Nhưng tôi nghĩ việc này tôi có thể làm về sau, khi đã nhận được hết những bài thơ theo dõi những chặng đường tôi đã đi qua. Tôi đã tặng bản quyền cuốn “Đời Phi Công” cho Hội Khuyến Học ở thành phố St Louis và hiện nay Hội đang chuẩn bị cho in lại để gây quỹ phát giải thưởng cho các em học sinh xuất sắc. Trên cuốn sách này và trên nhiều bài viết khác đã được phổ biến rộng rãi, tôi đã nói sơ qua về cuộc đời của mình, khi đang là sinh viên ở Đại Học Hà Nội, tôi được động viên theo học để trở thành một sĩ quan trong ngành công binh, và sau đó tôi đã đi Pháp để học thành một sĩ quan phi công. Bến dừng chân của tôi, sau khi ra trường ở Thủ Đức, là một quận nhỏ ở Thái Bình khi tôi được quân đội giao cho công việc xây cất một cây cầu trên một mạch lộ giao thông quan trọng. Nếu tác giả ẩn danh của những bài thơ đã gửi đến mà định gợi cho tôi nhớ đến những tỉnh thành tôi đã đi qua trong binh nghiệp thì tôi đoan chắc rằng người đó sẽ kiếm giùm cho tôi những hình ảnh của quân trường Thủ Đức, của những thành phố Thái Bình, Paris, Marrakech ...., là những nơi tôi đã tuần tự đi qua theo dòng đời nổi trôi. Đúng như tôi dự đoán, trong ba tháng liền tôi nhận được mỗi tháng một bài thơ kèm theo hình ảnh những đô thị tôi đã cư ngụ là Thái Bình, Paris và Marrakech. Tấm hình ở Thái Bình chỉ là hình chụp phía đằng sau của một người lính chiến, nhìn ra một cánh đồng hoang vu, một buổi chiều tà. Tôi nghĩ đây chỉ là một tấm hình cóp trên một tờ báo quân đội, vì người chiến sĩ có đeo một khẩu súng ngắn xệ bên hông phải trông dáng điệu thật hùng dũng, còn tôi thì ít khi tôi đeo súng. Hồi ở Thái Bình thuộc Quân Khu Ba, hàng ngày ra công trường tôi chỉ sách theo một khẩu carbine mà thôi. Tên tác giả ký lần này cũng khác, duy tôi có thể đoan chắc là chỉ có một người, hay một nhóm bạn trẻ vui nghịch với nhau, rủ nhau làm thơ tình toán học để tặng tôi. Bài thơ nay dài hơn, và ở phía dưới có phụ đề là “Nơi đây anh vào đời - Huyền Thanh Nữ”. 

Tâm Điểm
Tình là vậy, từ chân không chợt đến,
Một vòng tròn quay hai nửa tim hồng.
Để mỗi ngày đôi chân bước song song
Mong đi tới tận cùng là giao điểm
Em yêu anh, nên anh là tâm điểm
Giữa vòng tròn hạnh phúc của đời em.
Dẫu thời gian, không gian hoài biến chuyển,
Quỹ tích này vẫn mãi chỉ chờ anh.

Tấm hình tháp Eiffel, là biểu tượng của Paris, kinh thành ánh sáng, tôi nhận được với bài thơ tiếp nối, làm tôi nhớ lại những ngày ngồi ở trong những quán cà phê bên bờ sông Seine, như tôi đã tả trong cuốn “Đời Phi Công”. Đó là những ngày đầu tiên tôi sống trên nước người, và tôi còn nhớ rằng khi được thư của cô bạn gái bé nhỏ ở quê nhà hỏi có thấy nhớ nhà hay không thì trong một phút bồng bột của tuổi trẻ, lòng còn ôm mộng viễn phương, tôi đã viết thư trả lời: “Trong lúc này anh không thấy nhớ vì lòng còn đang rộn ràng với những cảnh lạ đường xa. Anh chỉ mơ hồ thấy rằng quê hương đang ở xa lắm, gần trọn nửa vòng trái cầu, có nhớ, có thương chăng nữa thì cũng nhớ xa sầu vời vợi, thương mênh mông như đại dương rộng lớn, còn có nhớ thương riêng một chút nào thì chắc cũng chỉ gói trọn vào một mình em gái anh mà thôi.” Tấm hình tôi nhận được, tôi không in vào đây mà thay bằng hình bìa cuốn sách lần tái bản, trên đó cũng vẽ tháp Eiffel. Còn bài thơ thì tôi để nguyên là: 

Bâng Khuâng
Trời về khuya, bóng hình ai thương nhớ,
Muốn quên đi, vì giấc mộng không thành.
Vẽ cho cùng, không trọn trái tim anh,
Em đành đem chuyện chúng mình cất lại.
Trang giấy nhầu ghi chút tình thơ dại,
Ngơ ngác buồn cây bút nhạt tình anh.
Em đã mang lượng số tính cho nhanh,
Tìm công thức đo trái tim mọng đỏ.

Tuy bây giờ tên tác giả đã hơi đổi khác, nhưng nét bút nhẹ nhàng vẫn nguyên như cũ và lần này được ghi chú là: "Nơi đây anh ngỡ ngàng - Huyền Nhi Nữ". Lần nào nhận được thư tôi cũng thấy thắc mắc nhiều về những câu phụ chú.
Những bài thơ, thật ra chỉ là những bài thơ toán học, phảng phất chen vào vài câu tình cảm ý nhị, và không liên hệ một chút gì đến tấm hình kèm theo. Nhưng câu phụ chú mới nói lên trạng thái, hay tình cảm đương thời của tôi. Người gửi tấm hình tháp Eiffel hình như đã đọc rất kỹ cuốn sách mà biết được tâm trạng lúc bấy giờ của tôi, đã được ghi lại như sau:
"Ánh sáng kinh thành huyền ảo cũng như mờ dần yếu ớt qua những lớp sương đêm. Tình quê hương lại nhóm bồng bột trong lòng người lãng tử. Ánh điện Nê-ông xanh rợn hay ánh lửa hoe vàng màu hỏa hoàng của ngọn đèn dầu, nhạc điệu sam-ba dậm dật hay tiếng sáo diều vi vu, Phượng ơi nào anh có biết? Chỉ biết đêm hôm nay có một anh chàng cà phê, ngồi giữa ánh sáng kinh thành mà nhớ đến quê hương."
Quả thật người viết những bài thơ đã biết là lúc đó tôi có tâm sự ngỡ ngàng của người vừa tới một phương trời xa lạ. Nếu những ngày lang thang trong lòng thành phố Paris, giữa khu Latin, và thỉnh thoảng lại vào một quán cà phê uống một mình, lặng nhìn thiên hạ mà nhớ đến quê hương, là những ngày tôi thấy ngỡ ngàng, thì những tháng sau, được gửi sang Bắc phi thực tập phi hành, hàng ngày tập đáp phi cơ trên những phi đạo trải rộng trên những cánh đồng cát, thì những ngày ấy mới là những ngày tôi thực sự bước chân vào đời và đã phải cố gắng hết sức mới vượt qua chặng đường huấn luyện bay đầy thử thách này. Huyền Công Nữ đến với tôi trong một bức hình cảnh sa mạc với mấy cây gồi và đoàn lạc đà đi trông thật là cô quạnh. Đây có lẽ là hình ảnh của Marrakech mà nàng thơ đã chọn cho tôi. Tôi tạm gọi tác giả những bài thơ toán là nàng thơ vì những tên ký diễm kiều với nét chữ nhẹ nhàng. Tôi đã sống ở nơi này vào khoảng chừng tám tháng, trong suốt thời gian học bay căn bản. Những kỷ niệm đáng ghi nhớ là những buổi chiều chủ nhật đi giữa những căn phố nhỏ hẹp, để coi những thổ sản gồm có những tấm thảm dệt tay, hay những đồ đồng hay đồ da, những người bán hàng luôn luôn mời chào. Những buổi chiều ấy, tôi đã đi lạc vào thế giới của nghìn lẻ một đêm, nhưng những nàng kiều nữ tôi đã gặp chỉ lộ ra những đôi mắt đen huyền, sâu thẫm, còn khuôn mặt luôn luôn được che kín bởi những làn voan đen. Sau khóa học, lại trở về Pháp, với tôi những kỷ niệm không quên còn có những buổi bay đêm dưới ánh trăng ngà dãi trên những cồn cát vàng hiện ra sáng lóng lánh dưới cánh người bay. Giờ đây những kỷ niệm ấy lại đến với tôi khi tôi cầm trong tay tấm hình đoàn lạc đà đi trên những cồn cát vàng với lời ghi chú: "Nơi đây anh mơ màng - Huyền Công Nữ". Nàng cũng gửi theo một bài thơ với ngụ ý chia ly: 

Ly Biệt
Anh ngỡ ngàng, đọc phương trình em gửi,
Để nhận rằng đường anh bước song song.
Đôi ta đi, dù tới cõi vô cùng,
Nhịp sống đời chẳng bao giờ hội tụ.
Thôi đi nhé, không gian và vũ trụ,
Bóng thời gian tồn tại mãi không phai.
Bội số nhân, cộng lại dạ quan hoài,
Chỉ chờ anh, và chờ anh mãi mãi.

Sau thời gian học bay ở Bắc Phi tôi quay trở lại Trường Võ Bị Không Quân ở Salon de Provence để học tiếp phần lý thuyết. Cũng trong dịp này tôi ghi tên ở Đại Học Marseille để học thi bằng cử nhân toán học. Nhưng nàng thơ mà tôi quen biết qua thư từ thì lại thật lạ lùng ở chỗ khi tôi được huấn luyện về quân sự hay về phi hành thì lại gửi cho tôi những bài thơ tình toán học viết thao thao bất tuyệt, mà khi tôi tới đoạn đời thiên nhiều về toán thì lại đi ẩn luôn. Tôi đã nghĩ rằng tính trung bình mỗi tháng tôi nhận được một bài thơ, kèm theo một tấm hình theo thứ tự thời gian những nơi tôi đã đi qua thì sau tấm hình ở Marrakech nàng sẽ gửi cho tôi một tấm hình ở miền Provence, và lần này thì bài thơ tình toán học sẽ chỉ hoàn toàn về toán. Nhưng suy nghĩ của tôi chỉ đúng một nửa. Suốt hai tháng hè năm vừa qua tôi không nhận được một bức thư nào. Rồi bỗng nhiên vào cuối hè, một hôm bắt đầu vào thu trời đổ lạnh, tôi nhận được một bài thơ dài, lần này làm theo thể thất ngôn như dưới đây:

Biết Mấy Cân Bằng
Đời tổng hợp biết bao hàm số,
Mà giải nên trọn kiếp nhân sinh.
Vì tình yêu chính là độc nghiệm,
Ta mơ tìm phương pháp chứng minh.
Vào không gian tình là hình học,
Tính đạo hàm! Em sẽ soát con tim.
Ngừng nơi đó, không ra định lý,
Chờ phút giây, cho mộng đắm chìm. 
Nguồn hạnh phúc gồm bao ẩn số?
Hệ phương trình, đủ lý giải chăng?
Đẳng thức nào đem ra liên kết? 
Đợi chờ nhau, biết mấy cân bằng!

Nhìn tấm hình kèm theo tôi không khỏi bàng hoàng, nhớ lại những kỷ niệm xưa, vì là tấm hình cổng Phi Long, là cổng chính vào căn cứ Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn, nơi tôi đã thường nhật ra vào hơn bốn năm trời khi tôi giữ chức vụ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam, cách đây cũng đã gần nửa thế kỷ. Kèm theo tấm hình, lần này có lời phụ chú: "Nơi đây anh vẫy vùng - Trang Thiên Thanh".
Những tấm hình gửi tới đã không đi liên tục, vì không có những tấm hình miền Salon de Provence, nơi tôi thao dượt trong Trường Võ Bị, những ngày gắn lon alpha, và trao kiếm, những buổi đại lễ uy nghi, những toán sinh viên sĩ quan diễn hành, hàng hàng lớp lớp, trên trời phi cơ bay thành đội hình. Hình ảnh mười hai bến nước của tôi như vậy sẽ không đầy đủ, và cuộc đời của tôi đã bị cắt một khoảng trống, khoảng thời gian những năm cuối cùng sống trên đất Pháp, khi tôi vùi đầu vào học, cố thu thập những lý thuyết quân sự, tổ chức hành chánh, kỹ thuật và hành quân trong Không Quân, và đồng thời cũng nhân dịp còn ở nước người học thêm về toán học, những môn chưa được giảng dậy ở quê nhà. Chính vì nhờ có những ngày không sôi nổi, lắng đọng như vậy mà tôi đã thâu thập thêm được nhiều kiến thức, để sau này có dịp đưa tài năng phục vụ quê hương một cách đắc lực hơn.
Một năm dài đã dần qua kể từ ngay tôi phóng bút viết bài thơ Toán với đề là "Tình Hư Ảo". Những bài thơ đáp lại, gửi đến từ bốn phương trời, nay không còn thấy đến nữa. Phải chăng tôi đã viết ra một phương trình mà không có nghiệm số, hiểu theo nghĩa bóng, và nghĩa đen là viết lên một bài thơ mà không được mấy người đáp ứng. Tôi đã phải buồn rầu mà nghĩ rằng có thể tất cả chỉ là hư ảo, bài thơ tôi viết ra và những bài tôi nhận được, rồi đây sẽ quyện lấy nhau như một cơn gió lốc, chợt đến rồi lại đi nhanh, rồi sẽ tan ra làm mây, làm khói, đi khắp bốn phương. Rồi đây, bỗng có ai nhặt được, đăng thành bài bản, người đọc cũng không thể đoán ra ai là tác giả, và có thể cũng không hiểu được hết ý nghĩa của những bài thơ, giữa vần điệu lại có chen thêm những phương trình toán học. Nhưng vào đầu thu, một tin mới lạ đã đến và giải thích được nhiều điều tôi chưa am tường, những nỗi thắc mắc vẫn còn vấn vương. Trong một buổi hội ngộ các cựu chiến sĩ ở Nam Cali, tôi được một phóng viên của đài truyền hình Michigan TV phỏng vấn. Lúc về anh gửi cho tôi một cuốn băng thâu hình, kèm theo một bức thư trong đó anh đã nói là thường đọc tin túc về tôi qua một diễn đàn điện tử của các bạn trẻ. Anh cho tôi tọa độ, và khi bật máy lên thì tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy trên diễn đàn Đặc Trưng, có mục "Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh", trên đó tôi được một số những bạn trẻ ở khắp năm châu trao đổi ý kiến và cho nhau tin tức về tôi, là người mà có lẽ phần lớn các bạn chưa hề gặp. Có những tin đưa ra trung thực, nếu lấy từ những bài do tôi viết, hay những bài do các thân hữu viết về tôi. Có những tin hoàn toàn sai lạc, và người cho tin cũng đã nói là do một người khác kể lại. Nhưng nội dung thì trong diễn đàn này, người khởi xướng chỉ nêu lên một nhân vật, thường thì là một khoa học gia, và những người muốn tìm hiểu thêm đã dùng diễn đàn đó dễ trao đổi tin tức để biết thêm về cuộc đời của người này. Những trao đổi này thường kéo dài chừng vài tháng, hay một năm là cùng. Vậy thì bài thơ "Tình Hư Ảo" tôi viết ra cũng chỉ như là một điểm tụ hợp để một số bạn trẻ gửi bài đến đóng góp và cùng chung một ý niệm là sáng tác những bài thơ tương tự gửi cho nhau coi. Mỗi lần gửi bài cho nhau họ lại gửi một bản tới tôi là người khởi xướng. Những bài thơ gửi giờ đây cũng thưa thớt, báo hiệu cái diễn đàn "thơ tình toán học" tôi khởi xướng cũng đã đến hồi chung cuộc. Đúng như lời tôi tiên đoán, vào ngày đầu năm, tôi nhận được bài thơ cuối cùng và nàng thơ toán của tôi với những tên khác nhau, nhưng nghe thật diễm kiều như Trang Hồng Quỳ, Trang Thiên Thanh, ... Huyền Nhi Nữ, Huyền Công Nữ, ... cách đây một năm bỗng chốc hiện ra, nay lại biến đi trong cõi nhạt nhòa. Bài thơ cuối cùng, được gửi kèm theo hình một bức tranh, hình như là của Tú Duyên vẽ một thư sinh ngồi như lắng nghe tiếng đàn, tiếng trúc ti từ nơi đâu ngân lại. Hình vẽ có kèm theo lời phụ chú: "Nơi đây anh tâm tình--Huyền Thiên Nữ". Còn bài thơ tôi in lại nguyên văn như dưới đây:

Người Tình Không Gian 
Anh với em đồng quy trên mặt phẳng,
Từ một chiều xa lạ của không gian, 
Từ một buổi trao tần số ngỡ ngàng,
Vùng tiếp tuyến trên bờ môi, nhất định. 
Đã trót yêu, từ tâm theo bán kính. 
Mối tình đầu không hệ luận tương lai. 
Biết anh đi trên quỹ tích đường dài, 
Hồ mắt lệ, em vương chiều tọa độ.
Giải đạo hàm em mong tìm nghiệm số. 
Kỷ niệm buồn, cực đại giữa tim ai? 
Đem nhớ thương, không còn biết ngày mai,
Đã yêu rồi, tình đôi ta bất biến. 
Anh từng nói yêu trong tình thánh thiện,
Rút căn rồi hội luận có bằng không. 
Khi biết mai sau em phải theo chồng, 
Buồn thẳng góc theo những đường tiệm cận. 
Chiều nhớ thương chất chồng theo vô tận,
Anh đi rồi định lý sẽ sai đi. 
Giải đoán nào lại không ướt bờ mi,
Thôi, chỉ đợi kiếp sau thành nhất thể. 
Anh hiểu chưa, cõi lòng em như thế,
Em muôn đời không đổi trục, anh ơi. 
Nhớ thương anh, tuy chẳng nói nên lời,
Em mơ ước theo cung đường tối lợi. 
Tìm giao điểm cho lòng ai mở hội, 
Xác định rồi vẽ đồ thị triển khai, 
Rồi chứng minh tỷ lệ suốt đêm dài, 
Lên đáp số đóng khung đời hình học.
Bài toán tình luôn làm người mê hoặc,
Bởi muôn đời nó vô định, người ơi!!

Chép xong bài thơ tình toán học để kết thúc một câu chuyện tâm tình viết một ngày xuân, tôi đọc lại hai câu thơ cuối và thấy rằng quả là tôi đã mê say toán học trong suốt cuộc đời. Thuở xưa khi còn thích đọc những sách về văn học, tôi đã biết câu "Thư trung hữu nữ nhan như ngọc", nghĩa là trong sách có người con gái sắc diện ngọc ngà. Bây giờ thì tôi hiểu được rằng không phải sách văn chương mới làm mình mê hoặc như được nhìn thấy người đẹp qua những kinh văn, nhưng sách toán và khoa học cũng có thể làm cho ta có những phút mộng mơ.
Toàn Phong NGUYỄN XUÂN VINH

18 tháng 9, 2024

VTM_155_Trăng Khuya_Hương Lệ Oanh VA

 






Xướng:

Trăng Khuya


Trăng khuya vằng vặc sáng lung linh
Cảnh vật xung quanh thật hữu tình
Thanh vắng chơi vơi hồn lạc lỏng
Bao la rộng lớn khắp hành tinh
Dạt dào thấu hiểu lòng nhân thế
Trong sáng mơ màng thệ chứng minh
Ngày ấy xa rồi lòng rộn rã
Dưới trăng đẹp lắm thuở thanh bình

Hương Lệ Oanh VA

Họa 1:

Trăng xưa 

Rừng rậm âm u cảnh hiển linh
Tường đông lửa lựu ngát hương tình
Hồn quê quạnh quẽ đời dâu bể
Xuân sắc đong đầy nắng thủy tinh
Cầu Thệ Thủy, đêm trăng bóng rũ
Bến Vân Lâu đợi, tiết thanh minh
Hương xưa một thoáng còn lưu luyến
Núi Ngự tròn trăng đẹp thái bình.

Nguyễn Cang

Sept. 16, 2024

Họa 2:


Chim chìa vôi

Văng vẳng đâu đây tiếng tích linh
Chim kêu báo hiệu rất vô tình
Trăng khuya ẩn hiện nơi đầu ngõ
Tuyết trãi sân nhà chiếu trắng tinh
Động vật trời sinh ai biết được
Bản năng thiên phú rất thông minh
Chìa vôi tên gọi nơi dân dã
Nhảy nhót vui chơi cảnh thái bình

PTL
tích linh 鶺鴒: chim chìa vôi. Người ta còn gọi nó là Tuyết cô 雪姑 vì khi nó kêu thì tuyết rơi và nó thich ăn tuyết


Họa 3:

Mạt Pháp

Đại Đức Ba Vàng dựng chuyện linh
Cúng dường bá tánh quá thâm tình
Phước sương tràn ngập Thầy vô đạo
Biến chất sãi sư thái hoá tinh
Mạt Pháp nhiễu nhương sầu biến chất
Mãn Thời hỗn loạn kiếp vô minh
Kẻ còn tim óc lòng tơi tả
Phép lạ ban cho tựa thủy bình

THT

Phước sương 福 : thùng chứa đựng phước.

Mạc Pháp: Mạc  là cái ngọn, pháp là giáo lý của 1tôn giáo. Mạc Pháp là thời kỳ cuối cùng của chính pháp, còn gọi là mạc thế末世

Thủy bình 水平 nước phẳng

Đại Đức Ba Vàng:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch_Tr%C3%BAc_Th%C3%A1i_Minh

Họa 4:

Trung thu thuở ấy


Tiếng trống múa lân đón phước linh,
Đêm rằm tháng tám đượm bao tình.
Hoa đăng dưới phố đầy kim tú,
Nguyệt tỏ tầng không mãn thủy tinh.
Trẻ nhỏ rước đèn trong bóng tối,
Tao nhân phó hội tới bình minh.
Trà thơm bánh mứt bình thơ phú,
Trai gái đàn ca cảnh thái bình.

Mỹ Ngọc.

Sept. 17, 2024.

Họa 5:

Trăng nhớ

Vằng vặc đường trăng bóng diệu linh
Dáng in bến cũ đượm thâm tình
Bâng khuâng rảo bước trên đường vắng
Khắc khoải thả hồn trước lối tinh
Nhớ mãi vòng tay thời thiện mỹ
Thương hoài nụ thắm thủa anh minh
Miên man chợt tĩnh dừng chân hỏi
Đêm đã tàn canh bóng nguyệt bình

Sept. 16, 2024

TQ


Họa 6:


Vịnh trăng

Chú cuội ôm cành đa hiển linh,
Lên chơi trăng sáng biết bao tình.
Địa cầu xoay chuyển xuân - thu - hạ…
Vũ trụ giao hoà nhật - nguyệt - tinh.
Vầng ngọc khuyết tròn luôn trác tuyệt,
Máy trời đặt để quá thông minh.
Che rèm ẩn mặt khi mưa bão,
Gợi hứng thi nhân mộng thái bình.

Minh Tâm



1. Tân nhạc: 
Trăng về thôn dã
Nhạc sĩ: Hoài An
Ca sĩ: Trúc Anh



2Tân cổ:
Phần vọng cổ câu 5 có dùng câu thơ Yên ba giang thượng sử nhân sầu của Thôi Hạo 
Xem chú thích ở cuối bài

Tiếng Quốc Đêm Trăng
Tân Nhạc: Vũ Đức Sao Biển
Vọng cổ: Anh Kiệt
Nghệ sĩ: Kim Luận


Tân Nhạc:

Đêm trắng qua sông dài,
Chợt nghe tiếng quốc dưới trăng.
Chim hỡi chim kêu bầy,
Mà như chim hót nhớ ai.
Từ ước mơ tương phùng,
Gọi giữa đêm não nùng.
Cho con bạn tình chung.
Cho con bạn… tình chung.

Gọi giữa đêm não nùng.
Cho con bạn tình chung.
Cho con bạn… tình chung

Vọng Cổ 

Câu 1:
Em lại trở về đây trên bến sông xưa năm nào đưa tiễn.
Anh ở nơi đâu sao chỉ có vầng trăng đơn lạnh đón… em… về.
Trăng nước vẫn thủy chung sao ai nỡ hẹn thề.
Có phải chốn thị thành phồn hoa đô hội,
lộng lẫy sắc màu đã trói cuộc đời anh.
Nhìn một con đò trên sóng nước long lanh,
lòng rộn rã chờ phút giây tương hội.
Nhưng chỉ mình em trên bến vắng đìu hiu,
đành gửi tâm tình nương theo khói sóng.

Câu 2:
Sương phủ trắng không gian một màu giá lạnh,
nhưng đâu lạnh bằng lòng em trong cô quạnh đợi chờ.
Chờ một chuyến đò ngang nối lại đôi bờ.

Lý Chim Quyên:

Trên sông buồn trăng nhớ ai,
Mà bóng trăng nhạt nhòa,
Soi đáy sông lặng lờ như hiểu được tình em.
Anh nơi nào nghe tiếng đêm
Đuổi theo sông dài,
Theo tiếng chim lạc bầy kêu sương giữa trời khuya.
(Về lại vọng cổ )
Tiếng quốc đêm trăng như gửi lời ước hẹn,
Dẫu biển cạn mòn không thay đổi được tình ta.

Tân Nhạc:
Hoa ơi, em đâu rồi,
Ngàn hương tóc xanh đâu rồi.
Long lanh con sông dài,
Về đây nhớ một vầng trăng.
Người có hẹn gì không,
Mà sao sóng lên mênh mang một dòng.
Tình chỉ một lần qua,
Mà sao tiếc thương cả đời ta.
Đêm trắng qua sông Hậu,
Chợt nghe tiếng quốc nhớ nhau.
Chim hót nơi giang đầu,
Mà sao tê buốt cuối sông.
Người ấy xa ta rồi,
Còn tiếc chi mà gọi:
Ơi con bạn tình ơi,
Ơi con bạn... tình ơi.

Còn tiếc chi mà gọi:
Ơi con bạn tình ơi,
Ơi con bạn... tình ơi

Câu 5:
Năm tháng đợi chờ bến xưa không dời đổi.
Chỉ có chuyến đò qua thay đổi tự... lâu... rồi.
Lời thề xưa ai cũng vội quên rồi.
Đã bao mùa trăng em trở về bến đợi,
làn tóc xanh giờ đã nhạt mùi hương.
Để mơ màng hình bóng một người thương,
Để nức nở trong nỗi sầu cô độc.
Rồi dưới trăng một mình em thầm khóc,
“yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Lý Con Sáo:
Đêm trăng xưa,
Trên bến nghẹn ngào tiễn đưa.
Dòng sông buồn ngân lên,
Như khúc ca đưa tiễn một người,
Sẽ đi, đi mãi không về.
Đêm trăng này mình em trên bến xưa,
Sông cũng ngân lên một bài ca.
Lời ca buồn nghe sao xót xa,
Mãi mãi ta mất nhau từ đây.

Câu 6:
Nhưng biết làm sao khi đồng tiền xé lời chung thủy,
thì trái tim yêu có trăm nẻo đi về.
Làm sao cắt nửa vầng trăng,
Làm con đò nhỏ thả trôi theo dòng.
Gửi ai cả một tấc lòng,
Gửi ai tiếng quốc não nùng dưới trăng.

Chú thích:
Yên ba giang thượng sử nhân sầu 煙波江上使人愁
Nghĩa là: khói sóng trên sông khiến người buồn
Đây là câu trong bài Hoàng hạc lâu 黃鶴樓 của Thôi Hạo 崔顥. Bài thứ 170 trong quyển Đường thi tam bách thủ 唐 詩 三 百 首

PTL

黃鶴樓                         Hoàng Hạc Lâu
昔人已乘黃鶴去, Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu,
此地空餘黃鶴樓。 Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
黃鶴一去不復返, Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
白雲千載空悠悠。 Bạch Vân thiên tải không du du.
晴川歷歷漢陽樹, Tích xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
芳草萋萋鸚鵡洲。 Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
日暮鄉關何處是         Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
崔顥                         Thôi Hạo

Chú thích:
Đa số sách dich chữ 去 là khứ.
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Tuy nhiên chữ khứ là thanh trắc thành ra bài thơ lạc vận.
Chữ 去 còn đọc là khu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu
PTL

Bản dịch của Ngô Tất Tố:

Người xưa cưỡi hạc đã lên mây,
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!

Hoàng Hạc lâu














Chim chìa vôi ăn tuyết

 




Tiếng chim chìa vôi:




16 tháng 9, 2024

Tai nạn ở nhà máy điện nguyên tử Three Mile Island năm 1979, USA_Trần-Lâm Phát

 

Bối cảnh tai nạn ở nhà máy điện nguyên tử Three Mile Island, tiểu bang Pennsylvania, năm 1979, USA

Bài viết  căn cứ vào tài liệu Backgrounder của NRC Hoa kỳ vào 11 tháng 2 năm 2013.

NRC là ai ?
NRC (Nuclear Regulator Commission) là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang Hoa kỳ do quốc hội lập ra năm 1974 để bảo đảm an toàn cho dân chúng và môi trường trong việc sử dụng chất phóng xạ. NRC qui định luật cho các nhà máy điện nguyên tử và các cơ quan dân sự dùng nhiên liệu nguyên tử như y học.
NRC cấp giấy phép cho xây, giấy phép đóng cửa, giấy phép gia hạn thời gian hoạt động nhà máy điện nguyên tử.
Ngoài trung tâm đầu nảo của NRC ở Rockville, Maryland , NRC có văn phòng ở 4 vùng khác nhau:
Vùng 1 trụ sở King of Prussia,  Pennsylvania.
Vùng 2 trụ sở Alanta,  Georgia.
Vùng 3 trụ sở Lisle, Illinois.
Vùng 4 trụ sở Arlington, Texas.
NRC thanh tra thường xuyên nhà máy và chỉ chổ sơ hở về an toàn cho nhà máy để sửa chửa.
NRC cảnh cáo vi phạm luật an toàn. Nhà máy không khắc phục kịp thời sẽ bị phạt tiền rất nặng. Nhà máy tái phạm hay vi phạm nghiêm trọng sẽ bị NRC tạm thời đình chỉ sản xuất điện cho đến khi lỗi đươc khắc phục.
 NRC là cơ quan kiểm tra, duyệt, chấm bài thi và cấp bằng điều khiển nhà máy cho thí sinh thi đậu viết và thực hành. Mỗi nhà máy có nhân viên NRC thường trú để kiểm tra về an toàn.
Cứ 2 năm NRC thanh tra 1 lần. Nhân viên không được tiết lộ sự hiện diện của thanh tra; ai vi phạm sẽ bị kỷ luật (tối đa là sa thải), phạt tù và tiền theo luật liên bang. Ai đe dọa, lừa dối NRC thanh tra sẽ bị nghiêm trị theo luật liên bang: tù và tiền.
Khi NRC đến thanh tra hay chấm thi, NRC không bao giờ tham dự các bửa ăn do công ty thết đãi.
Bên cạnh NRC, INPO (Institute of Nuclear Power Operations) là 1 tổ chức thanh tra và chấm điểm thứ tự nhà máy điện nguyên tử ở Hoa kỳ.
Sau khi tai nạn xảy ra ở Three Miles Island, INPO đuợc thành lập năm 1979  bởi những nhà máy điện nguyên tử ở Hoa kỳ. Trung tâm đầu nảo ở thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia. INPO đưa ra tiêu chuẩn, kiểm tra chương trình huấn luyện và sự hoạt động của nhà máy điện nguyên tử . INPO giúp các đơn vị nhà máy điện nguyên tử sửa chửa khuyết điểm và tăng cường sự an toàn. INPO được yểm trợ tài chánh bởi các nhà máy điện nguyên tử ở Mỹ . INPO là cơ quan độc lập không trực thuộc hay bị ảnh hưởng của NRC nhưng dựa theo luật lệ của NRC để kiểm tra nhà máy hạt nhân.
 
Bối cảnh tai nạn ở nhà máy Three Mile Island thuộc tiểu bang Pennsylvania, USA
Trong bài này gồm:
1. Sơ đồ nhà máy TMI-2
2. Tóm lược sự việc
3. Sơ đồ hoạt họa của diễn tiến tai nạn
4. Tác dụng đến sức khỏe
5. Ảnh hưởng của tai nạn
6. Tình trạng hiện thời
7. Tin tức thêm
8. Chú giải
Tóm lược:
Lò phản ứng số 2 (TMI-2) gần thành phố Middletown, quận Dauphin, tiểu bang Pennsylvania xảy ra một phần nóng chảy vào ngày 28 tháng 3 năm 1979. Đây là lịch sử tai nạn nghiêm trọng do nhà máy điện nguyên tử mặc dù 1 số lượng nhỏ chất phóng xạ lan ra ngoài và không hề gây ảnh hưởng đến sức khoẻ dân chúng. Sau tai nạn này, chính phủ Hoa kỳ thay đổi toàn diện sự kiểm tra về chương trình phản ứng khẩn cấp, huấn luyện về lò phản ứng, vai trò kỹ sư, kiểm soát & bảo vệ nhiễm phóng xạ và những lĩnh vực khác trong cơ chế vận hành, điều khiển nhà máy điện nguyên tử. Đó là lý do NRC nghiêm khắc kiểm tra chính sách giám sát. Những thay đổi này nâng cao sự an tòan của lò phản ứng.
Kết họp giữa máy móc hư hỏng, vấn đề kiến trúc và phán đoán sai lầm của nhân viên đưa đến một phần nóng chảy của lò phản ứng TMI-2 và 1 số lượng mỏng manh chất phóng xạ đưa ra ngoài vùng kế cận.

1.Sơ đồ nhà máy:



2. Tóm lược sự việc:

Tai nạn bắt đầu vào 4 giờ sáng (giờ địa phương) ngày thứ tư, 28 tháng 3 năm 1979 khi hệ thống thứ 2 (secondary) không dính líu tới lò phản ứng của 1 trong 2 lò phản ứng bị trục trặc. Sự hư hỏng về cơ khí hay điện làm cho máy chủ yếu bơm nước  không đưa nước tới bộ phận sản suất áp suất để làm giảm nhiệt độ lò phản ứng. Lý do này làm cho máy phát điện và lò phản ứng tự động tắt. Ngay lập tức áp suất trong hệ thống thứ nhất (primary) (1 phần của lò nguyên tử) bắt đầu tăng lên. Để kiểm soát áp lực này, cái van (valve) giảm áp suất nằm trên đầu của hệ thống tạo áp suất mở ra. Cái van này sẽ đóng lại khi áp suất giảm xuống đến mức qui định nhưng nó bị nghẽn không tự đóng lại được. Hệ thống kiểm tra trong phòng điều hành (control room) cho biết cái van này đã đóng lại. Kết cuộc nhân viên điều khiển nhà máy không hề biết nước làm lạnh đã đổ ào ạt xuống cái van bị kẹt ở vị trí mở.
Lượng nước làm nguội chảy từ hệ thống thứ nhất (primary system) qua cái van, những dụng cụ đo lường, báo hiệu của bộ phận khác không cung cấp đầy đủ tin tức cho người điều hành nhà máy. Không có dụng cụ nào cho biết bao nhiêu nước đã vô trong lò phản ứng. Như vậy ban điều khiển nhà máy giả sử rằng khi áp suất lên cao, lò phản ứng được bao che bởi lượng nước qui định . Khi chuông báo động vang lên và đèn báo hiệu nhấp nháy, nhân viên điều hành không biết họ đã gặp tai nạn mất nước làm nguội. Họ đã quyết định phản ứng nghiêm trọng nhưng họ làm cho điều kện trở nên xấu hơn. Nước thoát ra từ van bị kẹt làm giảm quá nhiều áp sất của hệ thống thứ nhất khiến cho máy bom làm nguội tắt đi để tránh rung động (vibration). Để tránh tình trạng mất hết áp suất, ban điều hành giảm lượng nước khẩn cấp làm nguội đưa vào hệ thống thứ nhất . Hành động này làm giảm sự làm nguội lò phản ứng và đưa đến tình trạng quá nóng.
Không có đủ lượng nước chảy vào, nhiên liệu nguyên tử quá nóng đến mức độ zirconium bị vở và nhiên liệu nguyên tử bắt đầu nóng chảy. Sau này người ta khám phá 50% nhiên liệu bị nóng chảy trong giai đoạn bắt đầu tai nạn. Mặc dù TMI-2 bị thiệt hại nặng về lò phản ứng nóng chảy, tai nạn khủng khiếp trong ngành điện nguyên tử, nhưng ảnh hưởng đến bên ngoài không đáng kể. 
Không như thảm hoạ Chernobyl ở Nga và Kukushima ở Nhật, lò phản ứng ở TMI-2 đứng vững như bàn thạch và khóa kín chất phóng xạ bên trong.
Ban đầu chính quyền tiểu bang và liên bang e ngại về số lượng phóng xạ nhỏ nhen đo bên ngoài vào cận trưa ngày 28 tháng 3 và tỏ ra quan ngại nhiều hơn về chất phóng xạ có thể xảy ra  vùng dân cư quanh nhà máy. Họ không biết lò phản ứng đã nóng chảy nhưng họ lập tức lập giai đoạn để kiểm soát lò phản ứng và bảo đảm luợng nước làm nguội cho lò phản ứng. Văn phòng NRC ở King of Prussia được thông báo lúc 07:45 sáng ngày 28 tháng 3. Trung tâm đầu nảo NRC ở Hoa thịnh đốn được báo cáo và trung tâm điều khiển của NRC ở Bethesda bắt đầu phân công. Văn phòng khu vực bắt đầu gởi đoàn thanh tra đầu tiên đến nơi tai nạn. Nhân viên của bộ năng lượng và môi trường cũng bắt đầu vận chuyển nhân viên đến nơi để giúp đở . TMI mướn trực thăng và bộ năng lượng lấy mẫu  để đo chất phóng xạ trên không vào giữa trưa. Đội ngũ từ phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven cũng phái nhân viên đến giúp đo lường chất phóng xạ . Tòa bạch ốc được thông báo lúc 9:15 sáng và 11 giờ những nhân viên không cần thiết được lịnh về nhà.
Vào chiều 28 tháng 3, lò phản ứng có đầy đủ lượng nước làm nguội và bắt đầu ổn định . Tuy nhiên nỗi lo ngại mới bắt đầu sáng thứ 6, ngày 30 tháng 3.  Số lượng phóng xạ đáng kể từ tòa nhà phụ được thải ra để giảm áp suất của hệ thống thứ nhất và cắt bớt lượng nước làm nguội vào lò phản ứng gây ra sự hiểu lầm và kinh ngạc. Trước sự bất ổn của nhà máy, thống đốc bang Pennsylvania, ông Richard L.Thornburg, hỏi ý kiến NRC về sự di tản dân xung quanh nhà máy . Thống đốc và chủ tịch NRC, ông Joseph Hendrie đồng ý kế hoạch đưa dân ra khỏi vùng để bảo đảm an toàn. Thống đốc Thornburg yêu cầu phụ nữ mang thai và thiếu niên trước tuổi đi học cư ngụ trong vòng bán kính 5 mile (8 km) phải di tản.
Trong thời gian ngắn, phản ứng hóa học nơi nóng chảy tạo ra lượng lớn hydrogen trong vòm cao (cái mũ) của nơi tạo áp suất, nơi chứa lò phản ứng. Trong trường họp này bong bóng của hygrogen rơi vào trong toà nhà lò phản ứng và có thể tạo ra lổ thủng của tòa nhà lò phản ứng. Bong bóng hygrogen là nỗi âu lo lớn cho chánh quyền và dân chúng trong ngày chú nhật 31 tháng 3. Cơn khủng hoảng chấm dứt khi chuyên viên cao cấp xác định rằng bong bóng của hygrogen không thể gây ra cháy hay bùng nổ khi thiếu lượng oxygen trong bầu tạo áp suất. Hơn nữa lúc ấy nhà máy đã thành công làm giảm diện tích của bong bóng hydrogen.


3. Sơ đồ hoạt hoạ của diễn tiến tai nạn:


Sau đây là sơ đồ hoạt hoạ diển tiến của tai nạn ở nhà máy TMI-2


Chú thích: Bạn hãy kiên nhẫn xem vì có lúc tưởng như đã xong (không có hoạt họa) nhưng thực ra thời gian ngừng 1 vài giây trước khi bắt đầu sự kiện mới


4. Tác dụng đến sức khỏe:


NRC với bộ tài nguyên và môi trường, bộ y tế, bộ giáo dục và trợ cấp cùng với chánh quyền tiểu bang Pennylvania nghiên cứu kỹ càng về hậu quả của tai nạn gây ra bởi chất phóng xạ. Nhiều cơ quan độc lập cũng thực hiện nghiên cứu. Khoảng 2 triệu người  xung quanh nhà máy TMI-2 trong lúc tai nạn, phỏng đoán đã nhiễm phóng xạ khoảng 1 mili rem hơn chất phóng xạ bị nhiễm bởi môi trường thiên nhiên (background radiation như nhà gạch, ánh nắng mặt trời, nước, không khí, tia cosmic, dụng cụ y khoa, thuốc lá, du lịch bằng máy bay v.v.) Đây là thí dụ đễ dễ so sánh: Khi chụp x ray ngực con người nhận 6 mili rem và môi trường thiên nhiên gây ra phóng xạ  vào người từ 100-125 mili rem mỗi năm.
Chú thích: REM là đơn vị đo chất phóng xạ ở Mỹ. Vì lượng nhiểm rất nhỏ nên người ta dùng mili rem cho chính xác hơn
Vài tháng sau khi tai nạn xảy ra, những câu hỏi được nêu lên về ảnh hưởng chất phóng xạ thải ra từ nhà máy TMI-2 đối với con người, súc vật, cây cối xung quanh. Không có 1 chứng minh nào cho thấy tai họa gây ra bởi tai nạn này. Vài ngàn mẫu thí nghiệm về không khí, nước, sữa, đất, rau cỏ, thực phẩm được thu thập bởi những cơ quan khác nhau. Một lượng rất nhỏ chất phóng xạ thải ra trong tai nạn. Tuy nhiên sự điều tra và nghiên cứu kỹ càng của các tổ chức danh tiếng như viện đại học Columbia, viện đại học Pittsburg kết luận rằng:  mặc dù có sự hư hại của lò phản ứng nhưng chất phóng xạ lan ra ngoài không làm ảnh hưởng đến sức khoẻ dân chúng và môi trường.


5. Ảnh hưởng của tai nạn:


Sự phối họp giữa sai lầm của con người, kiến trúc không đúng mức và trục trặc máy móc đã đưa đến tai nạn  nhà máy TMI-2 và là động lực thay đổi về kỹ nghệ điện nguyên tử và cơ quan điều khiển nguyên tử của chánh phủ Hoa Kỳ NRC.  Trước sự sợ hải và không tin cậy gia tăng, NRC  kiểm tra và quan sát chặt chẽ hơn và ban quản lý nhà máy điện nguyên tử càng thận trọng hơn. Nghiên cứu và phân tách kỹ càng về tai nạn đưa đến 1 sự hoàn toàn đổi mới vĩnh viễn về sự kiểm tra của nhà máy có giấy phép để giảm đi ảnh hưởng về sức khoẻ và an toàn cho dân chúng.
 Sau đây là những thay đổi lớn kể từ tai nạn:
·         Nâng cấp và cường độ của thiết kế nhà máy và máy móc. Nó bao gồm chương trình cứu hỏa, hệ thống ống dẫn, máy bơm nước phụ, cô lập lò phản ứng, độ tin cậy bền bỉ của từng bộ phận (van thả áp suất, những ngắt điện và khả năng tự động tắt của nhà máy.)
·         Xác định vai trò chủ yếu về cách làm việc an toàn. Bắt buộc huấn luyện liên tục người đều khiển nhà máy và nhân viên quản lý. Tăng cao phẩm chất máy móc đo đạc và điều khiển nhà máy . Xây dựng cho nhân viên nhà máy chương trình “ phù hợp cho nhiệm vụ” về nồng độ cồn, lạm dụng thuốc men.
·         Tăng cường  chương trình phản ứng khẩn cấp, bao gồm việc  báo cáo cho NRC về những điều kiện xảy ra bất thường 24/24 giờ mỗi ngày. Thực tập chương trình hành động khẩn cấp vài lần trong năm có sự tham gia của chánh quyền địa phương, tiểu bang , liên bang và NRC.
·         Tăng cường  nhiệm vụ của NRC như  quan sát, tìm ra sai sót,  thẩm định về khả năng vận hành nhà máy trong chu kỳ ấn định và tường trình cho công chúng.
·         Nhân viên cao cấp của NRC thường xuyên phân tích khả năng vận hành của những nhà máy cần thêm chú ý đáng kể.
·         Tăng thêm NRC thanh tra thường trực tại nhà máy, lần đầu năm 1977,  phải có 2 thanh tra cư ngụ gần và làm việc trực thuộc mỗi nhà máy ở Hoa kỳ để  quan sát nhà máy tuân theo luật chính phủ.
·         Tăng cường thực hiện: định hướng về an toàn cũng như kiểm tra và dùng sự đánh giá rũi ro để xác định sự thiệt hại cho đến tai nạn hiểm nghèo.
·         Tăng thêm và tổ chức lại cơ cấu nhân viên thuộc văn phòng khác nhau trong hệ thống NRC.
·         Thiết lập cơ quan INPO, kỹ nghệ điện nguyên tử cùng nhau thiếp lập qui chế của chính mình, tin tức của Viện năng lượng cung cấp thống nhất về qui lật và tác động qua lại với cơ quan NRC và những cơ quan khác.
·         Nhà máy điện nguyên tử gắn thêm dụng cụ để giảm nhẹ điều kiện tai nạn, theo dõi cường độ phóng xạ và tình trạng của nhà máy.
·         Nhà máy điện nguyên tử ban hành chương trình để sớm khám phá sự trở ngại của những dụng cụ an toàn quan trọng, và thu nhặt những tin tức, dữ liệu để chia xẻ kinh nghiệm nhanh chóng.
·         Tăng cường sinh hoạt quốc tế của NRC để chia xẻ kiến thức về an toàn nguyên tử với những quốc gia khác trong lĩnh vực kỹ thuật quan trọng.


6. Tình trạng hiện thời:


Ngày nay lò phản ứng của TMI-2 vĩnh viễn đóng cửa và nhiên liệu đã được tháo gỡ. Hệ thống nước làm nguội lò phản ứng đã tháo cạn và nước có chất phóng xạ dược trừ khử và bốc hơi. Những rác rưỡi có phóng xạ đã được chở đến nơi hủy bỏ và những mảnh vỡ của nhiên liệu và lò phản ứng được đưa đến phòng thí nghiệm quốc gia của bộ năng lượng ở Idaho. Năm 2001 công ty First Energy mua TMI-2 từ công ty GPU. First Energy có họp đồng theo dõi TMI-2 từ  công ty Exelon, công ty Exelon hiện là chủ và điều hành TMI-1. Công ty dự trù giữ nguyên trạng thái TMI-2 trong thời gian lâu dài, theo dõi khu lưu trử cho đến khi giấy phép hoạt động của TMI-1 hết hạn. Lúc đó cả hai nhà máy sẽ được tháo gỡ.
Sau đây là niên đại tổng quát của công trình làm sạch TMI-2 từ 1980 đến 1993:
Tháng 07 năm 1980: Lần đầu tiên nhân viên vào trong lò phản ứng sau tai nạn.
Tháng 11 năm 1980: Ban điều hành tháo gỡ TMI-2 lần đầu tiên nhóm họp với dân chúng, nhà khoa học, chính quyền địa phương và tiểu bang tại Harrisburg, Pennylvania.
Tháng 07 năm 1984: Cái chụp lò phản ứng (reactor vessel head) được tháo ra.
Tháng 10 năm 1985:  Bắt đầu tháo gỡ nhiên liệu.
Tháng 07 năm 1986: Chở những mảnh vỡ của lò phản ứng ra khỏi khu vực nhà máy.
Tháng 08 năm 1988: Công ty GPU đệ trình đề xuất tu chính giấy phép hoạt động TMI-2 thành giấy phép sở hữu và cho phép công ty giám sát lâu dài nơi lưu trữ .
Tháng 01 năm 1990: Nhiên liệu hòan tòan được tháo gỡ .
Tháng 07 năm 1990: Công ty GPU đệ trình ngân sách 229 tỷ để tháo gỡ phóng xạ của nhà máy.
Tháng 01 năm 1991: Bắt đầu cho bốc hơi nước tai nạn
Tháng 04 năm 1991: NRC ra bố cáo về sự yêu cầu sửa giấy phép của công ty GPU.
Tháng 02 năm 1992:  NRC công bố tường trình sự an toàn và cho chuyển giấy phép.
Tháng 08 năm 1993:  Công trình tháo gở nước chấm dứt: 2,23 triệu gallon nước đã tháo ra.
Tháng 09 năm 1993:  NRC cấp giấy phép sở hữu.
Tháng 09 năm 1993:  Ban điều hành tháo gỡ TMI-2 họp lần cuối cùng.
Tháng 12 năm 1993:  Lưu trử theo dõi bắt đầu.
7. Tin tức thêm:
Muốn biết thêm tin tức về tai nạn của TMI-2 xin liên lạc bằng Anh ngữ:
NRC phòng hồ sơ công cộng: 301-415-4733 hoặc 1-800-397-4209 hay email pdr@nrc.org
địa chỉ : 11555 Rockville Pike, Rockville, MD 20852.
Nên nhớ: hồ sơ bằng micro fiche và phải trả lệ phí .
8. Chú giải:
Những từ sau đây bằng Anh ngữ để rộng bề dư luận:
Auxiliary feedwater ‑ (see emergency feedwater)
Background radiation ‑ The radiation in the natural environment, including cosmic rays and radiation from the naturally radioactive elements, both outside and inside the bodies of humans and animals. The usually quoted average individual exposure from background radiation is 300 millirem per year.
Cladding ‑ The thin‑walled metal tube that forms the outer jacket of a nuclear fuel rod. It prevents the corrosion of the fuel by the coolant and the release of fission products in the coolants. Aluminum, stainless steel and zirconium alloys are common cladding materials.
Emergency feedwater system ‑ Backup feedwater supply used during nuclear plant startup and shutdown; also known as auxiliary feedwater.
Fuel rod ‑ A long, slender tube that holds fuel (fissionable material) for nuclear reactor use. Fuel rods are assembled into bundles called fuel elements or fuel assemblies, which are loaded individually into the reactor core.
Containment ‑ The gas‑tight shell or other enclosure around a reactor to confine fission products that otherwise might be released to the atmosphere in the event of an accident.
Coolant ‑ A substance circulated through a nuclear reactor to remove or transfer heat. The most commonly used coolant in the U.S. is water. Other coolants include air, carbon dioxide, and helium.
Core ‑ The central portion of a nuclear reactor containing the fuel elements, and control rods.
Decay heat ‑ The heat produced by the decay of radioactive fission products after the reactor has been shut down.
Decontamination ‑ The reduction or removal of contaminating radioactive material from a structure, area, object, or person. Decontamination may be accomplished by (1) treating the surface to remove or decrease the contamination; (2) letting the material stand so that the radioactivity is decreased by natural decay; and (3) covering the contamination to shield the radiation emitted.
Feedwater ‑ Water supplied to the steam generator that removes heat from the fuel rods by boiling and becoming steam. The steam then becomes the driving force for the turbine generator.
Nuclear Reactor ‑ A device in which nuclear fission may be sustained and controlled in a self‑supporting nuclear reaction. There are several varieties, but all incorporate certain features, such as fissionable material or fuel, a moderating material (to control the reaction), a reflector to conserve escaping neutrons, provisions for removal of heat, measuring and controlling instruments, and protective devices.
Pressure Vessel ‑ A strong‑walled container housing the core of most types of power reactors.
Pressurizer -  A tank or vessel that controls the pressure in a certain type of nuclear reactor.
Primary System ‑ The cooling system used to remove energy from the reactor core and transfer that energy either directly or indirectly to the steam turbine.
Radiation ‑ Particles (alpha, beta, neutrons) or photons (gamma) emitted from the nucleus of an unstable atom as a result of radioactive decay.
Reactor Coolant System ‑ (see primary system)
Secondary System ‑ The steam generator tubes, steam turbine, condenser and associated pipes, pumps, and heaters used to convert the heat energy of the reactor coolant system into mechanical energy for electrical generation.
Steam Generator ‑ The heat exchanger used in some reactor designs to transfer heat from the primary (reactor coolant) system to the secondary (steam) system. This design permits heat exchange with little or no contamination of the secondary system equipment.
Turbine ‑ A rotary engine made with a series of curved vanes on a rotating shaft. Usually turned by water or steam. Turbines are considered to be the most economical means to turn large electrical generators.
nguồn: http://www.nrc.gov/reading-rm/doc-collections/fact-sheets/3mile-isle.html

15 tháng 9, 2024

Đồng lúa quê tôi_PTL

 


Nhành lúa mới
Tôi tới một miền quê kề bên trận địa vào một buổi chiều hoe nắng.
Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài, vắng bóng người nông phu cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm, không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Qua một đêm ngủ đỗ, sáng hôm sau, tôi trở dậy lên đường. Trong ánh nắng ban mai, đố ai biết có gì đổi khác? Nhìn vào thôn xóm, vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm nhưng dãi đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ đến bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lượt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên dãi đồng rộng mênh mông. Trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát, trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên khắp đô thành và làng mạc, thì ở đây, người nông dân Việt nam vẫn thản nhiên gieo nguồn sống.
Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trỗi dậy, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt của cả một dân tộc.
Khuyết Danh
(Báo Tia sáng Hà nội 1950)

11 tháng 9, 2024

VTM 154_Đọc sách_PTL

 


Hình trích trong quyển Quốc văn giáo khoa thư, trang 8, do nha học chính Đông-Pháp xuất bản năm 1930, lưu trử tại thư viện của Đại học Yale, tiểu bang Connecticut, U S A.

Xướng:

Đọc sách
Đọc sách noi gương bậc thánh hiền
Tương lai tránh khỏi cảnh truân chuyên
Đường đi phía trước luôn ghi nhớ 
Cuộc sống gập ghềnh với ngả nghiêng
Giao thiệp thâm tình nên nắm giữ
Tôn sư lễ nghĩa vẫn lưu truyền
Mai kia danh vọng đừng quên vội
Bần tiện chi giao lúc đảo điên
PTL
Bần tiện chi giao mượn ý từ câuBần tiện chi giao mạc khả vong 貧賤 之交 莫忘” (Người giao tiếp lúc còn nghèo, chớ nên quên.)


Họa 1:

Gia giáo
Vốn dòng gia giáo gái ngoan hiền 
Tứ đức tam tùng tánh chính chuyên 
Hiếu thảo thuận hoà luôn gắng nhớ 
Thời xưa lễ độ khó chao nghiêng 
Tương lai hạnh phúc không bờ bến 
Lễ giáo gia phong tiếp tục truyền 
Thế hệ đời sau mong giữ mãi 
Duy trì đời trước chớ cuồng điên 
Hương Lệ Oanh VA

Họa 2:

Ăn xôi chịu đấm
Rung đùi vênh váo cưới vợ hiền
Ngôn hạnh công dung lại chính chuyên
Gặp phải Hà đông đành chịu chết
Cuộc đời lên lão bỗng xiêu nghiêng
Ăn xôi chịu đấm lòng tê tái
Nghĩ lại suy đi ngỡ bí truyền
Híp mắt ngoại hình nên quyết vội
Để rồi khổ ải đến cuồng điên

THT


Họa 3:
Học hỏi gương xưa
Bao nhiêu gương sáng bậc tiên hiền,
Tìm học nên người, dạ gắng chuyên.
Hạnh đức dồi trau thường sáng tỏ,
Nghĩa nhân gìn giữ chẳng chinh nghiêng.
Chắt chiu kiến thức ngàn xưa trải,
Gạn lọc tinh anh vạn thuở truyền.
Thiên hạ đắm chìm trong lửa đạn,
Bởi tranh vương bá mộng cuồng điên.
Minh Tâm

Họa 4:

Làm người
Rèn thân trí dũng đạo tâm hiền
Học phép giao tình mở dạ chuyên
Đao đức từ bi dù khốn khó
Nhân hòa bác ái dẫu chênh nghiêng
Noi gương tổ phụ ngàn năm giữ
Nối chí tiền tông vạn kiếp truyền
Nghĩa nặng thiên kim hằng ghi nhớ
Thành danh... Thất bại... Chẳng cuồng điên!
TQ

Sept. 02, 2024

 

Họa 5:

Thư sinh thuở trước
Thư sinh thủa trước thật ngoan hiền,
Phong độ đơn thuần học tập chuyên.
Phụ tử ơn thâm luôn hiếu đễ,
Quân thần trung tín chẳng nhào nghiêng.
Sư đồ nghĩa trọng mong đền đáp,
Bạn hữu tình bền mãi tụng truyền.
Xã hội văn minh thêm mệt mỏi,
Bon chen cuộc sống khiến cuồng điên.
Mỹ Ngọc
Sept. 6, 2024.

Họa 6:

Tu thân


Làm con phải giữ đạo tiên hiền
Cố gắng cần lao* học hỏi chuyên
Cuốc đất vùi chôn cành lá mục
Soi kinh cảm nhận cảnh chiều nghiêng
Đường trần dẫu gặp nhiều cay đắng
Phận số vần xoay cũng thấm truyền
Hệ lụy nhân gian đầy hỷ nộ
Bình tâm giải quyết tránh rồ điên.

Nguyễn Cang

Aug. 30, 2024

*Cần lao (勤勞):siêng năng chịu khó, mượn ý 2 câu nói: Cần lao vi tiên thủ, (Có làm thì được trước).Năng cán dĩ đắc thực. (Siêng làm thì tất sẽ có ăn)


Tháng 8, nhớ Mẹ

1. Tân nhạc: Qua đò nhớ Mẹ

Thơ: Nguyễn Ngọc Hạnh
Nhạc: Nguyễn Ngọc Tiến
Ca sĩ: Vy Hương






Tôi sinh [C] ra từ bến [Em] sông nàу
[Am] Ѕông thì [Dm] hẹp mà tình quê rộng [G] thế
Đời Mẹ sớm [Dm] hôm chớp [G] bể mưa [C] nguồn
Ấp ủ đàn [Dm] con trong đôi gánh tảo [Em] tần
Tấm thân [Am] cò lặn lội bên [Dm] sông
Đêm giá [G] lạnh thân cò [C] long đong [F][G][C]

Không gọi [G] đò, con gọi mẹ [C] ơi!
[Em] Trên bến [Am] sông nàу lòng con [G] hằng nhớ
[Am] Nước chở phù [Dm] sa nuôi dòng [Em] sữa mẹ
Ϲuộc đời [F] mẹ bao mùa bể [Dm] dâu
Đời [G] mẹ buồn đứng tựa [C] bờ ao [F][G][C]

Không gọi [G] đò con gọi mẹ [C] ơi!
Ѕông thì [Em] hẹp mà vô bờ [Am] đến vậу
Con đi [D7] qua hết một đời trai [G] trẻ
Từ con [F] đò lòng mẹ qua [Dm] sông
Ôi con [G] đò lòng Mẹ [C] mênh mông
Không gọi [G] đò con gọi [C] mẹ ơi!



2. Tân Cổ: Tình Mẹ 
Lời Vọng Cổ: Thanh Tòng 
Tân Nhạc: Ngọc Sơn
Nghệ sĩ: Mỹ Tiên



Tân nhạc:
Trở về làng quê bao tháng năm xa xôi cách biệt
Trên từng lối mòn, hàng tre xưa nay đã già nua
Tìm lại mẹ yêu nơi làng quê
Tháng năm ngóng chờ mong người con
Đã lâu lắm rồi không về thăm mẹ già nơi chốn xưa.

Ngược dòng thời gian bao dấu yêu xa xưa trở về
Nhớ hoài năm nào, mẹ gian nan dãi nắng dầm sương
Nhọc nhằn chăm lo cho đàn con
Miếng ăn giấc ngủ từng đêm
Những khi gió lạnh bên nhà tranh nghèo ấm êm tình thương.

À ơi, tiếng võng đong đưa chiều mưa mẹ ru con ngủ,
Con hời, con ngủ cho ngoan
Ngọt ngào tiếng ru ầu ơ
Như vẫn còn đây trong lòng con
giờ này mẹ ơi, biết tìm mẹ ở đâu?

Vọng cổ:
Câu 1:

Suốt chặng đường xa trên chiếc xe đò vượt qua từng cây số.
Bánh vẫn lăn nhanh sao lòng còn thấy chậm vì sớm mong gặp lại đấng… sanh… thành.
Ngước nhìn dáng mẹ thân yêu trong giấc ngủ yên lành.
Trên chiếc võng đong đưa kẻo kẹt,
mẹ từng nằm ru giấc cho con.
Ầu ơ gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
năm canh chày thức đủ vừa năm.
Giăng mùng ươm muỗi cho tằm,
lụng đụng suốt đêm ngày nằm chưa nóng chiếu.

Câu 2:

Mẹ lo trồng đậu tưới tiêu,
ba đi soi ếch, nhái bầu, chàng hiu(1).

Mẹ ngồi vá lưới đan lờ(2),
ba lo sửa lại bờ rào vẹo xiêu.
“Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn”,
câu hát ôi sao tắm đượm ân tình.
Dãi nắng dầm sương ba nhóm bệnh liệt trên giường.


Trăng Thu Dạ Khúc 

Đường vô nghĩa trang gập gềnh.
Ba đi không còn trở lại.
Hàng lau gió lay xạc xào.
Nỉ non côn trùng tấu nhạc.
Mẹ trông đèn lặng nhìn hình ba.
Để mặt dòng nước mắt tuôn ra.

(Về vọng cổ - dứt Xang 32 - Câu 2)
Sợ phá giấc côn không dám lên tiếng khóc,
giờ lưng mẹ thêm còng tóc đã nhạt màu đen.

Trăng Thu Dạ Khúc 

Buổi tiễn con lên đường, môi già run run không nói nên câu.
Con ráng giữ gìn, thân gái một mình.
Thành đô trăm lối cạm bẫy buông lơi.
Nắng che mưa đậy coi chừng ngựa xe bướm ong.
Qua nhịp cầu tre, dắt tay không rời.
Con đi trường học, trường đời mẹ đi lẻ loi.

(Về vọng cổ - Xề 24 - Câu 6)

Câu 6:

Giờ lặng nhìn rào cây mái lá,
cỏ non chặn lối mẹ xa con rồi.
Còn cha còn mẹ thì hơn,
mất cha mất mẹ như đàn đứt dây.
Mẹ tôi tóc bạc vai gầy,
áo cơm tuy thiếu nhưng đầy tình thương./.