Xướng:
Xem hát bộ
Cạn tuồng hát mãi một bài caHấp dẩn đến đâu cũng chán mà
Chiêu thuật hoán vai nghe ngứa rốn
Trò hề dụ khỉ thấy lườm da
Thương đàm thế chiến nhiều vai diễn
Giảm thuế tăng lời lắm kẻ ra
Thoáng nghĩ tài danh đời nhớ mãi
Là vai giúp nước thực hay là
TQ
Aug 31,25
Hát bội thì ngâm xướng chẳng ca
Cuộc đời Vô Diệm đáng chi mà
Tề Duyên chấp nhận đưa về ở
Bất ngờ thuật sĩ kẻ vào ra
Cao tài không sợ người hãm hại
Mãi mãi an tâm sống lượt là
Vua Tề Tuyên chiêm bao thấy một mỹ nữ dâng cành hoa ngũ sắc, vua báo quân sư Yến Anh đoán mộng. Quân sư tâu: Đó là điều tốt và xin Thánh Hoàng nên đi săn, sẽ gặp hoàng hậu. Tề Tuyên Vương ngự giá đi săn, vua bắn trúng một con thỏ, thỏ tha tên chạy, vua đuổi theo, lạc vào vườn dâu của Chung Vô Diệm lúc bà đang hái lá dâu. Thấy vua, Chung Vô Diệm tới đón tiếp và ngỏ ý muốn hoà duyên cùng vua. Vua thấy mặt mày Chung Vô Diệm xấu xí nên không bằng lòng nhưng vì bà nài ép, vua đành phải hứa hẹn. Cả nhà Chung Vô Diệm cho đây là một tai hoạ lớn, phạm tội khi quân, nhưng Chung Vô Diệm nhất quyết đi về kinh đô tìm vua. Vua cho Chung Vô Diệm ở cung Chiêu Dương vì cung này có nhiều ma quỷ với mục đích hại chết bà. Không ngờ, Chung Vô Diệm có tài thuật pháp trừ yêu ma nên vua đành phải kết duyên.
Họa 2:
Thế Sự
Thế sự thăng trầm đổi quốc caAnh hùng thất trận có sao mà
Ăn nhờ ở đậu lành cơm áo
Gắn bó cùng nhau khác biệt da
Thân phận đời người như bèo giạt
Nỗi niềm muôn thuở chẳng tìm ra
Thôi thì số phận đành cam chịu
Kiếp sống tha hương cũng thật là
Hương Lệ Oanh VA
Xem tuồng
Kèn thổi trống khua rộn tiếng ca.
Mang hia đội mão cũng hay mà.
Cầm gươm nhảy cóc vung roi ngựa,
Bôi phấn tô mày lấp sắc da.
Đầu buổi đàn rao hăng hái lắm,
Hết tuồng màn khép mệt nhừ ra.
Khóc cười thiện ác tùy vai diễn,
Đào kép quanh năm cứ thế là…
Minh Tâm
Họa 4:
Vọng cố hương
Quốc Khánh bày trò múa hát ca
Dựng xây đất nước khó chi mà
Diễn hành đốt pháo ăn mừng tiệc
Cất giọng thương dân nóng cháy da
Hưng Đạo anh hùng xưa chiến thắng
Trường Sơn dũng sĩ lại thò ra
Trăm năm tượng đá còn ghi sử
Chiến đấu vì dân mới thực là
Nguyễn Cang
Aug. 31, 2025
Mang hia đội mão cũng hay mà.
Cầm gươm nhảy cóc vung roi ngựa,
Bôi phấn tô mày lấp sắc da.
Đầu buổi đàn rao hăng hái lắm,
Hết tuồng màn khép mệt nhừ ra.
Khóc cười thiện ác tùy vai diễn,
Đào kép quanh năm cứ thế là…
Minh Tâm
Vọng cố hương
1. Khi ta có [Am] tiền thì anh em bằng hữu
Vây quanh [F] ta bao lời ngon tiếng [C] ngọt
Vây quanh [D] ta bao lời yêu thiết [C] tha
Tình nhân hay bằng hữu gần kề không cách [E7] xa.
2. Nhưng khi hết [Am] tiền đời không như mình nghĩ
Anh em [F] xưa tình nhân sao ngoảnh [C] mặt
Yêu thương [D] xưa sao giờ như nước [C] mưa
Tạt vào trong quặn khắc giật [E7] mình ai rẻ [Am] khinh.
ĐK:
Khi sa [Dm] cơ mới hiểu [Am] người
Khi chơi [G] vơi chỉ gượng [C] cười
Người bạc bẽo như vôi
Bao tiếng đệ [G] huynh sao nỡ làm [F] thinh
Khi ta hết [Dm] thời ta trông thấy [F] người
Người lạnh lùng buông [E7] lơi.
Khi sa [Dm] cơ mới ngậm [Am] ngùi
Câu yêu [G] thương chỉ nửa [C] vời
Giận người cũng vậy thôi
Bao tiếng đệ [G] huynh gian dối giờ [F] khinh
Xin cám ơn [Dm] người cho ta hiểu [F] rồi
Lời ngọt ngào trên [G] môi toàn [E7] giả dối ai [Am] ơi.
https://www.youtube.com/watch?v=yWlFNey-7yc
Hát Bộ còn được gọi là Hát Bội, có lẽ đó là cách nói trại ra. Ngoài ra còn có giải thích rằng gọi là “Hát Bội” vì trong nghệ thuật hóa trang đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ… lên người. Theo nhà nghiên cứu Vũ Khắc Khoan, cả hai tên gọi ấy đều đúng.
Hát Bộ du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác nhưng có truyền thuyết ghi rằng vào thời Tiền Lê năm 1005, một kép hát người Tàu tên là Liêu Thủ Tâm đến Hoa Lư và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên nhà Tống và được vua Lê Long Đĩnh thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.
Sang thời nhà Trần, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn bắt được một tên quân nhà Nguyên tên là Lý Nguyên Cát vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở Vương mẫu hiến đào để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.
Người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật Tuồng (nghệ thuật Hát Bộ) Việt Nam là Đào Duy Từ (1572-1634).
Ở Miền Trung Việt Nam trở ra gọi Tuồng do chữ “Liên Trường” là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ “liên trường” do ngôn ngữ địa phương mà thành “luôn tuồng”…
Theo tiến sĩ Phạm Trọng Chánh, Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne:
Hát bội có khoảng 280 làn điệu nhưng theo tuyền thống có các làn điệu lớn : gồm hát Nam, hát Khách, Thán, Oán, Ngâm thường dùng nhiều hơn cả.
Hát Bội không phải ca mà là xướng có các làn điệu : Nam xướng, Bắc xướng, Than xướng, Bạch xướng.
Ngày xưa phân biệt giữa ca và xướng.
Ca dùng giai điệu để mô tả tình cảm. trái lại xướng vị trí của ngữ khí quan trọng đóng vai trò quyết định khí thế của giai điệu cho hợp với tình cảm diễn biến của nhân vật.
Xướng lúc nào cũng cất cao giọng, dựng hơi lên gọi là láy dựng, xướng không hát theo nhạc tòng mà hát theo nhạc đệm. Giai điệu dựa theo âm thanh lời thơ, bảo đảm rõ lời nhằm đúng theo tình cảm cá tính nhân vật.