Câu đối ngày Tết
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
…………………………..
(Ông đồ già, Vũ đình Liên, 1936)
Thời Hán học, nếu đàn ông không thi đậu được làm quan thì
làm nghề dạy học mà người ta nôm na gọi là thầy đồ, ông đồ. Mỗi năm Tết đến ông đồ ngồi viết câu đối ở
nơi đông người.
Câu đối là phong tục của người Bách Việt (百越), lãnh thổ ở phía Nam
Trung quốc và phía Bắc Việt Nam. Họ treo hai bùa gỗ có hình vị Thần Đồ và thần
Uất Luỹ ở hai bên cửa ngõ .
Theo truyền thuyết, hai vị thần này sống dưới gốc đào lớn của núi Độ sóc và cai
quản đàn quỷ. Về sau người ta thay thế bùa gỗ bằng hai câu đối và treo trong
nhà, ngoài cửa .
Theo Tống sử Thục thế gia (宋史蜀世家) thì câu đối đầu tiên của Chương Tôn viết vào năm 959 theo lệnh của Mạnh Sưởng 孟昶, chính chúa nhà Hậu Thục (934-965):
新年納餘慶
嘉節號長春
Tân niên nạp dư khánh
Gia tiết hiệu trường xuân
Nghĩa là:
Năm mới thừa
phúc lành
Tết đẹp mãi trường
xuân
Hàng năm khi Tết gần kề, người ta có thú chơi câu đốị.
Người thâm nho thì viết câu có ý nghĩa sâu sắc, người bình dân thì viết câu đơn giản.
Trên bàn thờ thì viết câu nhớ công lao tổ tiên, cha mẹ .
Xưa thì câu đối viết bằng chữ Hán. Câu tận cùng bằng vần
trắc thì treo bên phải (đứng đối diện câu đối) và câu tận cùng bằng vần bằng
thì treo bên trái
人 於 百 行 孝 為 先 |
|
有 四 時 春 在 首 |
Phiên âm:
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
Nghĩa là:
Năm có 4 mùa, mùa xuân đứng đầu
Con người có trăm đức hạnh, hiếu hạnh trên hết
Sau đó người ta thay chữ Hán bằng chữ Nôm và cũng viết theo
hình thức chữ Hán:
節 圭 𡀷 吔 坉 梅 黄 |
|
春 他 鄕 吟 坭 坦 客 |
Xuân tha hương ngậm ngùi nơi đất khách
Tết quê nhà rộn rã chốn mai vàng
Ngày nay ít người
biết chữ Hán hay chữ Nôm nên thế hệ trẻ dùng thư pháp viết
chữ quốc ngữ và đọc từ trái sang phải (câu vần trắc bên trái và câu vần bằng bên phải)