28 tháng 12, 2025

“chỉnh chu” hay “chỉn chu?”_Nguyễn Thị Thanh Truyền

 





Tóm tắt Trong các tình huống nói năng hàng ngày, chúng ta thường sử dụng "chỉnh chu" và "chỉn chu". Tuy nhiên, từ "chỉnh chu" hoàn toàn không có trong từ điển. Còn "chỉn chu" có nghĩa là "chu đáo", "cẩn thận", "không chê trách gì được". Sau khi phân tích ý nghĩa của "chỉnh chu", chúng tôi tin rằng nó đã được sử dụng hợp lý và đúng nghĩa. Và đã đến lúc "chỉnh chu" nên được chính thức thừa nhận và có một chỗ đứng "hợp pháp" trong tiếng Việt. Từ khóa: ngôn ngữ chuẩn; phát âm Nam bộ; phân tích từ vựng; ngữ nghĩa.

 1. Đặt vấn đề Nhà ngôn ngữ học người Pháp gốc Thuỵ Sĩ Charles Bally viết:
 “Ngôn ngữ ngày mai được chuẩn bị trong một loạt những cái sai của ngôn ngữ ngày hôm nay”. Điều này có nghĩa là những cái dùng không đúng của ngày hôm nay nhưng cứ lặp đi lặp lại và được cộng đồng chấp nhận thì ắt hẳn nó sẽ thành đúng và được sử dụng rộng rãi. Đó cũng là điều tất nhiên vì ngôn ngữ luôn vận động và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Ở đây, chúng ta quay lại vấn đề then chốt, đó là sự tồn tại của hai từ “chỉn chu” và “chỉnh chu”. Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến rất nhiều trường hợp dùng cả hai từ này, nhưng từ nào mới là chuẩn, là đúng? Hay là hai từ đều tồn tại song song và đều có ý nghĩa như nhau.

 2. Nghĩa từ điển của “chỉn chu” và “chỉnh chu”
 Để hiểu rõ hơn về hai từ này, chúng tôi đã lần tìm trong một số từ điển: Lê Ngọc Trụ(1993), Tầm Nguyên tự điển Việt Nam, NXB thành phố HồChí Minh; Thanh Nghị(1958), Từ điển Việt Nam, NXB Thời-Thế, Sài Gòn; Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, NXB Trường Thi, Sài Gòn; Hoàng Phê (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2007) định nghĩa “chỉn chu” như sau: “chỉn chu” chu đáo, cẩn thận, không chê trách gì được: quần áo chỉn chu, tính toán rất chỉn chu. Vậy theo từ điển Hoàng Phê, “chỉn chu” dùng để chỉ những con người ngăn nắp, có nề nếp, kĩ lưỡng. Ví dụ: “anh ấy là người chỉn chu”, “chị ăn mặc chỉn chu như vậy thì làm sao hợp với bầu không khí dạ hội như thế này” v.v.
 Còn “chỉnh chu” hoàn toàn không có trong bốn cuốn từ điển trên.

 3. Phân tích nghĩa của “chỉnh” và “chu”
Như trên thì rõ ràng trong từ điển không có “chỉnh chu”, vậy tại sao chúng ta vẫn nghe từ này tồn tại trong đời sống hằng ngày? Có người nghe tới “chỉnh chu” thấy lạ hoắc, còn có ý kiến thì cho rằng làm gì có “chỉn chu”. Chúng ta dựa trên nguyên tắc phân tích từ trong ngôn ngữ học để giải thích trường hợp người dùng “chỉnh chu” là có cơ sở. 
      
      Trước hết chúng ta xét từ  “chỉnh” theo định nghĩa của từ điển: 

(1) Chỉnh: sửa cho ngay, cho đúng: chỉnh đốn, chỉnh tề, chỉnh trang... (Tầm Nguyên tự điển Việt Nam).

(2) Chỉnh (không dùng một mình): ngay, cân, đều, thứ tự (Từđiển Việt Nam).
       - Chỉnh đốn (đt): sửa sang, sắp đặt lại cho có thứ lớp (chỉnh đốn việc hương thôn).
       - Chỉnh nghi (đt): sửa sang cho được sáng sủa, oai phong.
       - Chỉnh tề (tt): ngăn nắp, gọn gàng, đâu ra đấy.
       - Chỉnh tu (bt): tu chỉnh, sắp đặt, sửa lại. 

        Và hàng loạt những từ ghép khác gần nghĩa như: chỉnh lý, chỉnh sức, chỉnh túc, chỉnh trang...

         (1) Chỉnh: nguyên thể, hoàn toàn có thứ tự, ngay ngắn, cân xứng (Hán Việt từ điển).
       - Chỉnh bị: chỉnh đốn cho sẵn sàng. 
       - Chỉnh dung: sửa sang dung mạo cho gọn.
       - Chỉnh đốn: sửa sang, sắp đặt cho chỉnh tề. 

         Và những từ gần nghĩa như: chỉnh lý, chỉnh nghi, chỉnh sức, chỉnh tề, chỉnh túc, chỉnh vũ... cũng có nghĩa là sửa sang, sắp đặt lại cho gọn.

       (2) Chỉnh: theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thuộc hai lớp từ loại là tính từ và động từ: cân đối, có trật tự hợp lí, đúng quy tắc giữa các thành phần cấu tạo: đối câu rất chỉnh.

       - (đg) sửa lại vị trí, tư thế cho ngay ngắn, cho đúng: chỉnh lại đường ngắm, chỉnh lại tư thế ngồi trước khi chụp ảnh. 

       Và các từ ghép có yếu tố “chỉnh” như: chỉnh đốn, chỉnh hình, chỉnh huấn, chỉnh lí, chỉnh lưu, chỉnh sửa, chỉnh tề, chỉnh thể, chỉnh trang... 

        Vậy, như trên đã tìm hiểu, chúng ta thấy rằng từ “chỉnh” là một từ có khả năng tồn tại độc lập (là thực từ) thuộc hai lớp từ loại: động từ và tính từ. Thứ đến, chúng ta thử đi tìm nghĩa của từ “chu” và xem nó có khả năng vận dụng độc lập hay không.

       (1)  Trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “chu” thuộc hai lớp từ loại là động từ và tính từ.
      - (đg) chúm môi lại và dẩu ra phía trước.
      -(t) [khg] đầy đủ và đạt mức yêu cầu, có thể làm cho yên tâm, hài lòng: được thế này là chu lắm.

       (2) Trong Tầm nguyên từ điển, “chu”có nghĩa là “giáp vòng”, “vây xung quanh”.

        (3) Trong Từ điển Việt Nam, “chu” có nghĩa là “quanh khắp” và cũng được đọc là “châu” (châu vi).

      (4) Trong Hán Việt từ điển, “chu” cũng có nghĩa là vòng xung quanh hình tròn (chu báo, chu kỳ, chu lưu, chu san) và cũng có nghĩa là đến nơi đến chốn (chu đáo, chu toàn, chu tất...)

Như vậy, “chu” ở đây có nghĩa là một cái gì đó toàn vẹn, tròn trịa, cẩn thận, đạt đến mức làm cho người ta cảm thấy hài lòng, không để sơ suất. Từ này cũng có khả năng vận dụng độc lập nếu dùng trong khẩu ngữ: “Được thế này là chu lắm”(Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.226).

4. “Chỉnh chu”, đúng hay sai?

        Theo phân tích ý nghĩa của từ “chỉnh” và “chu” như trên, chúng tôi thấy rằng dùng từ “chỉnh chu” (thay vì “chỉn chu”) là không sai và hoàn toàn có cơ sở. 
      “Chỉnh chu” trường hợp này rõ ràng là một từ ghép đẳng lập với hai tính từ “chỉnh” và “chu”, cũng có thể so sánh như các trường hợp: “ăn ngủ”, “đi đứng”, “cười nói”... vậy. 

       Chỉnh (tt) (cân đối, có trật tự hợp lí, đúng quy tắc...) + chu(tt) (toàn vẹn, tròn trịa, cẩn thận, đạt đến mức làm cho người ta cảm thấy hài lòng, không để sơ suất) = chỉnh chu. 

       Chúng ta vẫn thường nghe một số cách nói như: “Anh ấy trông thật chỉnh chu”, “anh ấy là nguời chỉnh chu”.Rõ ràng trong những trường hợp này “chỉnh chu” là tính từ, có nghĩa dùng để chỉ một người kỹ lưỡng, lịch sự, đứng đắn, không chê trách gì được. 

       Và nếu như vậy thì rõ ràng nghĩa của “chỉnh chu” là sự kết hợp nghĩa của “chỉnh” và “chu”. Đối với “chỉn chu”, đây là một từ đã được hợp thức hoá trong từ điển, nó có nghĩa như trên đã đề cập. 

      “Trông cô ấy chỉn chu quá!”, “Anh Nam là người tính toán rất chỉn chu”.

      Và như vậy, có thể nói: “Trông cô ấy chỉnh chu quá!”, “Anh Nam là người tính toán rất chỉnh chu”. 

       Rõ ràng hai từ này cùng để biểu hiện một ý nghĩa giống nhau. Hơn nữa, bàn về mặt từ vựng thì chúng ta cũng nên đề cập đến vấn đề ngữ âm. Âm tiết “chỉn” [cin3] trong phương ngữ Bắc được phát âm bằng một nguyên âm dòng trước. Nhưng trong phương ngữ Nam nguyên âm dịch vào giữa, và được phát âm thành “chửn”. Mặt khác, trong phương ngữ Nam, vần “-inh” cũng được phát âm thành “-ưn” (Hoàng Thị Châu,(2004), tr.182).
 Như vậy trong phương ngữ Nam, vần “-in” và “-inh” được phát âm giống nhau và được phát âm thành ưn”. Trường hợp “chỉn” và “chỉnh” cũng được phát âm giống nhau thành “chửn”. Đây cũng là nguyên nhân hai từ “chỉn chu” và “chỉnh chu” cùng tồn tại song song trong các tình huống nói năng hằng ngày.

 5. Kết luận “Một chuẩn ngôn ngữ cuối cùng có hình thành và thực tế có tồn tại được hay không, là do số đông có thật sự chấp nhận và vận dụng nó hay không trong thực tiễn ngôn ngữ của mình” (Hoàng Phê, 1980).

       Và “chỉnh chu” trong trường hợp này cũng thế, nó được xã hội sử dụng. Thiết nghĩ, “chỉnh chu” đã đến lúc cũng phải được thừa nhận một cách hợp thức hoá như “chỉn chu” và tạo cho nó một chỗ đứng “hợp pháp” trong tiếng Việt. Hơn nữa,ngôn ngữ không phải là một “công trình” đã hoàn toàn bất di bất dịch, mà là một hoạt động đang diễn ra, khi trí tuệ con người làm việc không ngừng nghỉ để thích ứng với âm thanh, chất liệu ngữ âm và sự thể hiện của tư duy. Nó luôn vận động và phát triển không ngừng, chúng ta phải biết chấp nhận khi nó được sản sinh từ những nguồn gốc có cơ sở và mang “gen” của những nguồn gốc ấy, nghĩa là chấp nhận nó một cách có căn cứ. Điều đó góp phần làm cho ngôn ngữ phát triển một cách tự nhiên, làm giàu cho lớp từ vựng và làm cho tiếng Việt ta ngày càng giàu và phong phú hơn.
Nguyễn Thị Thanh Truyền

Ý kiến đọc giả:

1.
Theo hiểu biết của hắn, hắn chọn chữ "chỉnh chu" để dùng hơn là chữ "chỉn chu". Chữ "chỉn" hắn thấy thiêu thiếu cái gì đó. Mà nói thật lòng chữ "chỉn chu" hắn mới biết khoảng chục năm nay, và ngay cả chữ "chỉnh chu" hắn cũng chưa quen dùng vì chữ "chỉnh chu" có sách viết là được gom lại từ hai chữ "chỉnh tề và chu đáo", điều này theo hắn không có nghĩa gì cả khi trở thành một từ ngữ kép "chỉnh chu", nếu nói về ăn mặc hắn thường dùng chữ y phục "chỉnh tề" hơn là 2 cặp chữ kia vì chữ "tề" chỉ trạng thái ngay ngắn, đều đặn, bằng nhau. 
Các bác cùng thời với hắn vào sáu, bảy mươi năm trước, lúc đi học chắc cũng như hắn vì sách giáo khoa của bộ giáo dục miền nam lúc đó không dùng 2 cặp chữ này, nếu có chỉ là dùng là trong khu dân bắc di cư mà thôi, nếu bảo là trong dân gian thì miền nam ngày trước, mười người chưa chắc được một người biết chữ "chỉnh chu" để dùng, mà chỉ dùng chữ chỉnh như "điều chỉnh" chứ không cụt ngũn là "chỉn". Trong giới trẻ ngày nay họ còn dùng chữ thời đại như "chuẩn không cần chỉnh" nghĩa là đúng hết rồi, không cần chỉnh sửa nữa, cũng là một dạng chữ "chỉnh" đẹp, hắn chịu !!!.
Bài viết có đoạn "Nhà ngôn ngữ học người Pháp gốc Thuỵ Sĩ Charles Bally viết:
 Ngôn ngữ ngày mai được chuẩn bị trong một loạt những cái sai của ngôn ngữ ngày hôm nay”.
Hắn hoàn toàn đồng ý với nhà ngôn ngữ học Charles Bally, những cái gì hắn thấy đúng khi hắn đi học ngày trước nay sửa đổi lại mà không phân tích được rõ ràng chữ nghĩa nhưng cứ lập đi lập lại(người miền nam dùng chữ lặp(ă) không phải lập(â) như bắc kỳ hắn) trên báo chí, trên đài truyền hình, trong sách giáo khoa của nhà nước sẽ thành đúng và được xử dụng rộng rãi, những chữ đúng ngày trước trở thành sai. Hắn vừa viết chữ "xử dụng" mà không viết "sử dụng" như phần đông người VN, cũng bắt nguồn từ câu nói trên. 
 Ngày trước, hắn được học, được hội thảo và giảng dạy cho học sinh sự khác biệt của những chữ đồng âm mà trái nghĩa như 2 chữ "xử" và "sử".
"Xử" là động từ, một hành động theo cách nào đó đối với người khác trong một hoàn cảnh nhất định một hành động, thể hiện thái độ đối với người khác trong một hoàn cảnh nhất định.
 Chữ "xử" trong tiếng Việt có nhiều nghĩa
Ví dụ: "xử thế" (cách ứng xử), "xử án" (giải quyết vụ án), "xử nữ" (cô gái chưa chồng),xử tệ với bạn bè, tình huống khó xử, "Xử trí" (giải quyết), "khu xử" (sắp xếp), "xử lý công việc", "xử bắn", "xử tử hình",  "Xử sự" và "xử dụng" (cách dùng, là mode d'emploi), mọi chữ đều viết là "X" không có chữ nào dùng "S" 
Còn chữ "sử" được dùng như Sử sách, lịch sử. “quốc sử”
Lịch sử là nghĩa thông dụng nhất khi ta nói đến chữ "sử" như sách Lịch sử Việt Nam của Trần Trọng Kim ; sách "sử ký" của Tư Mã Thiên.
Cũng do hắn được học và phân tích như vậy nên cho dù bảo là hắn viết không đúng như mọi người, hắn vẫn không thay đổi vì hắn không muốn thua thêm mặt trận văn hóa nữa. Đâu phải là báo chí, đài truyền hình nhà nước viết nhan nhản là "sử dụng",mà không giải thích hợp lý, số đông a dua theo là chuyện của họ, hắn có lý lẽ của hắn, "hắn là cái của hắn là, không là cái của người khác là", đơn giản vậy thôi !!!
 Hắn vẫn dùng chữ "xử dụng" của nền giáo dục VNCH ngày trước. Ai muốn dùng như thế nào thì dùng là quyền của họ, hắn có sai đâu mà bảo là hắn "ngoan cố".
Bài này Chả Quế gởi cho hắn đọc cũng lâu rồi, cũng lười không định gởi đi, vì vừa đọc được một bài viết có nói đến hai chữ này nên hắn phiếm chút chuyện.
 Thỉnh thoảng cũng nói chuyện với vợ về ngôn ngữ 2 miền, vì Chả Quế cũng có lúc là đồng nghiệp với hắn,  được một cái vợ chồng thuận nhau ở điểm này, thuận vợ thuận chồng, ta cùng tát biển đông há em!!! 
Ara

 2.   Từ "chỉn chu" mới xuất hiện sau 30/4/75. Tôi không chấp nhận từ "chỉn chu" nên không bao giờ dùng 2 từ nầy.
   Tôi rất đồng ý với cách giải thích của tác giả về "chỉnh chu" là đúng và hợp lý hơn "chỉn chu". Bây giờ đã có 99% người viết "chỉn chu" rồi, họ chỉ tin vào sách vở miền bắc thì chữ viết sai thành chữ viết đúng, chữ viết đúng thành chữ viết sai, dĩ nhiên số ít sẽ bị loại. Có người lý luận họ chọn lựa cách viết theo số đông không cần biết đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý. Nhưng tôi với Ara thì nhất quyết không làm theo cái sai của họ .
     Chả Quế  


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đào Duy Anh (1957), Hán Việt Từ điển, NXB Trường Thi, Sài Gòn.
2.Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt,NXB ĐHQG HN.
3.Thanh Nghị(1958), Từ điển Việt Nam, NXB Thời –Thế, Sài Gòn.
4.Hoàng Phê (1980), “Chuẩn hóa tiếng Việt về mặt  từ vựng”, Ngôn ngữ, số 1.
5.Hoàng Phê (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
6.Lê Ngọc Trụ(1993), Tầm Nguyên tự điển Việt Nam, NXB thành phố HồChí Minh. 7.Nguyễn Đức Tồn (2013), “Quan điểm mới về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn hoá thuật ngữ”, Ngôn ngữ, số1.
8.Bài đã đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống,